Lăng Ông Bà Chiểu - Thượng Công Miếu

Hình 1. Cửa Tam quan của Lăng Ông đề ba chữ “Thượng Công Miếu”

 Thông tin về di tích
Tên di tích : Lăng Lê Văn Duyệt.
Loại công trình: Lăng mộ.
Loại di tích: Di tích lịch sử kiến trúc.
Quyết định: Số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Địa chỉ: số 1,  đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình ThạnhThành phố Hồ Chí MinhViệt Nam.

Vị trí của lăng:
Nằm kế bên chợ Bà Chiểu nên “ Lăng Ông Bà Chiểu” là tên gọi phổ biến trong dân gian để chỉ Di tích Lịch sử - Văn hóa Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (bao gồm cả khu vực mộ và miếu thờ). Hiện nay, lăng tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnhthành phố Hồ Chí Minh, trên một khu đất rộng 18.500m2, nằm ngay gốc ngã ba đường Đinh Tiên Hoàng và Phan Đăng Lư. Mặt chính lăng nhìn về hướng Tây Nam (hướng Cầu Bông).
Theo đúng như hàng đại tự phù điêu trên cổng tam quan thì “ Thượng Công Miếu” mới là tên gọi chính xác của di tích.
Quá trình xây dựng:
Tháng 7/1832 (năm Nhâm Thìn), Tả quân Lê Văn Duyệt mất, được an táng tại làng Bình Hòa (nay thuộc quận Bình Thạnh).
Năm 1835, sau sự biến thành Phiên An, Lê Văn Duyệt bị lên án và buộc tội đã gián tiếp gây nên biến loạn, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, xiềng xích sắt, trên dựng bia đá có khắc tám chữ: Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xử (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ .
Trong khu vực lăng còn có mộ vợ ông là bà Đỗ Thị Phẫn và hai cô hầu. 
Và từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914, việc cúng tế được tổ chức đều đặn hàng năm và việc trùng tu cũng được tiến hành nhiều lần...
Kiến trúc: 
Với việc trùng tu, xây dựng  dần dần để đi đến một công trình hoàn chỉnh, lăng mộ của Tả Quân lê văn Duyệt là nơi có kiến trúc cổ nhất, vì nó được tồn tại ổn định từ năm 1848, khi vua Tự Đức “xóa án” cho Tả quân Lê Văn Duyệt.
Chung quanh  khu  lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán: Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn - Gia Định xưa.
Bên trong lăng được xây dựng trên một trục đường chính, từ cổng Tam Quan vào gồm: Nhà bia - lăng mộ - miếu thờ.
Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Văn bia chữ Hán tiêu đề: Lê công miếu bi do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nội dung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.
Toàn thể khu mộ đều được xây bằng hợp chất. Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợ ông - bà Đỗ Thị Phẫn. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộ có một sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng là "Thượng công linh miếu", nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang...
Công trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái "trùng thiềm điệp ốc" và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ...mà nơi thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹp cổ kính cho đến ngày nay.

Một số hình ảnh lăng, mộ Tả quân Lê Văn Duyệt


Hình 3. Bia công nhận di tích lịch sử - văn hoá Lăng Lê Văn Duyệt năm 1988


Hình 4. Mộ (trái) và đền thờ (phải) Tả quân Lê Văn Duyệt


Hình 5. Nhà bia trong khuôn viên


Hình 6. Miếu thờ


Hình 7. Cận cảnh mộ tả quân Lê Văn Duyệt (phải) và vợ (trái)

Thờ cúng: 
Nơi chính điện có bức tượng bằng đồng của Tả quân Lê Văn Duyệt. Tượng được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 2,65m, nặng 3 tấn do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa & nay kết hợp cùng Hội Khoa học lịch sử VN trong chương trình Đúc  tượng  đồng cho lăng ông. Nơi trung điện, thờ Tả quân Lê Văn Duyệt (giữa), thiếu phó Lê Chất (phải), kinh lược Phan Thanh Giản (trái). 


Hình 8. Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện.
Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa & nay và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trong chương trình Đúc tượng đồng cho lăng Ông.

Hàng năm, tại lăng diễn ra hai lễ hội lớn, đó là ngày giỗ Tả quân từ ngày 01 đến 03 tháng 8 âm lịch và ngày hội đầu xuân mồng 1 và ngày mồng 2 tết.

Khi ông mất, dân gian xem ông như một vị thần, vì vậy việc thờ cúng và tế lễ ông tại lăng mang nghi thức thờ thần và tế thần. Nói rõ hơn, lễ hội lăng Ông Bà Chiểu không phải là lễ tưởng niệm anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực hay Nguyễn Huỳnh Đức... mà là lễ hội mang tính dân gian như lễ Bà Chúa Xứ (xem Miếu Bà Chúa Xứ) hoặc vía Ðiện Bà ở Tây Ninh (xem Núi Bà Đen)

Số người dự hội có đến hàng chục vạn, không chỉ người địa phương mà cả khách tỉnh xa cũng về dự hội. Ðáng chú ý trong số khách đi lễ số lượng người Hoa chiếm khoảng phân nửa. Bởi họ đến dâng hương tạ ơn một vị phúc thần  mà lúc sinh thời khi làm Tổng trấn Gia Ðịnh, ông có những chính sách, chủ chương nâng đỡ, tạo điều kiện cho cộng đồng người Hoa phát triển ngành nghề, an cư lạc nghiệp trên quê hương thứ hai của họ.
Ngoài Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Phan Thanh Giản, lăng còn có thờ vợ ông là Lê Công phu nhân và các Tiền hiền, Hậu hiền, các "Anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân" và hội viên quá vãng (những người xây dựng, quản lý, và hội viên Hội Thượng Công Quý Tế đã qua đời).

 Ban Biên tập sưu tầm và chỉnh lý
3. ảnh cá nhân chụp (hình 3)

Nhận xét