NHỮNG SAI LẦM VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ XÂY DỰNG, TIẾN HÀNH KẾ HOẠCH CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 - Phần 3


2.1.3. “Tổng công kích-tổng khởi nghĩa” và nguyên lý kết hợp
Về mặt lý luận, khởi nghĩa và chiến tranh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Mặc dù Lênin cho rằng: “Khó mà phân biệt được đâu là khởi nghĩa, đâu là chiến tranh”. Trong tiến trình cách mạng,ranh giới giữa chúng không rõ ràng nên nhiều người thường đồng nhất hai khái niệm này.
Điểm khác nhau cơ bản là trong khi khởi nghĩa dùng sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân để giành chính quyền. Còn chiến tranh thì được Ăngghen và Lênin nhận định: “Trong chiến tranh, người ta sử dụng lực lượng vũ trang với tư cách là phương tiện chủ yếu và quyết định”.
Xét về quy luật chuyển hóa, thực tiễn đã chứng minh: Cách mạng tháng Tám năm 1945 là ví dụ điển hình từ khởi nghĩa từng phần dẫn đến tổng khởi nghĩa. Còn trường hợp của phong trào Đồng Khởi 1960 chứng minh từ khởi nghĩa vũ trang tiến lên chiến tranh cách mạng. Hiện nay, cả trong lý luận và thực tiễn đều không có tiền lệ chuyển hóa ngược từ chiến tranh sang tổng khởi nghĩa. Sự kiện 30/4/1975 tại Sài Gòn cho ta thấy, chiến tranh cách mạng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để chiến thắng, thì ta giành chính quyền bằng lực lượng quân đội chứ không đợi quần chúng nhân dân khởi nghĩa vũ trang. Trong trường hợp tổng công kích không thành côngthì phải chuyển hóa sang cuộc kháng chiến trường kỳ vì không có đủ điều kiện cơ bản tiến hành tổng khởi nghĩa.
Trong chỉ đạo tổng công kích-tổng khởi nghĩa, Bộ chính trị nhận định: “Tổng công kích phải đi trước một bước”. Để thực hiện ý định này, một kế hoạch đã được đề ra như sau: “biệt động đánh chiếm mục tiêu bằng biện pháp quân sự, 30 phút sau quần chúng và sinh viên kéo đến, sau đó, từ 1 đến 2 giờ, các tiểu đoàn mũi nhọn tiến vào các mục tiêu để hỗ trợ”. 
Với một kịch bản như vậy, dường như đây là sự chuyển hóa từ chiến tranh sang tổng khởi nghĩa. Đây là vấn đề chưa có trong lý luận, chưa có ở thực tiễn và tất nhiên cũng không xảy ra ở Sài Gòn Tết Mậu Thân 1968.
Từ lý luận và thực tiễn đã nêu ra ở trên, có thể rút ra nhận định: Tổng công kích và tổng khởi nghĩa không thể kết hợp, diễn ra cùng một thời gian và một không gian nhất định. Vì nếu tấn công bằng sức mạnh quân sự thì quần chúng sẽ không thể xuống đường đấu tranh chính trị và ngược lại, nếu quần chúng xuống đường thì sẽ cản trở khả năng tấn công quân sự quy mô lớncủa cuộc tổng công kích.
Tóm lại, ta có thể đưa ra kết luận về sự kết hợp hai quy luật khởi nghĩa và chiến tranh: nếu diễn ra cùng một thời gian thì phải khác không gian nếu diễn ra tại một không gian thì phải khác thời gian và chỉ có thể chuyển hóa từ khởi nghĩa vũ trang tiến lên chiến tranh cách mạng, không có trường hợp ngược lại.

2.2. Những sai lầm và bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình tiến hành chiến dịch

2.2.1. Những sai lầm  về mặt quân sự

Ở phần trên chúng tôi đã trình bày và phân tích việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoặch của Đảng dựa trên lý thuyết của Ăngghen và Lenin tổng kết và áp dụng vào thực tế trong chiến dịch này. Ở phần này chúng tôi sẽ phân tích cụ thể hơn những hạn chế, sai lầm khi tiến hành chiến dịch trên thực tế.
Theo lời tựa đầu tiên của tác giả Don Oberdorfer: “ Cộng sản phải lùi một bước trên chiến trường nhưng lại giành thắng lợi chính trị ngay trên nước Mỹ” trong nhận định trên có thể thấy tác giả đưa ra hai vế thứ nhất là sự thất bại của quân giải phóng miền Nam và quân đội Bắc Việt thứ hai là chiến thắng về chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt Trận Dân tộc giải phóng miền Nam ngay trên nước Mỹ chúng tôi thấy rằng đây là một nhận xét khách quan và toàn diện về cuộc tổng tiến công, chúng tôi sẽ phân tích vế thứ nhất của vấn đề là sự thất bại của về mặt quân sự trong chiến dịch này. 
Đây là một thất bại hoàn toàn của quân giải phóng miền Nam và quân đội Bắc Việt nhận định theo quan điểm của chúng tôi và một số nhà sử học đặc biệt là các nhà sử học phương tây là  hoàn  toàn đúng vì trên thực tế là có rất nhiều sai lầm trong việc tiến hành chiến dịch trong cách tổ chức cũng như phối hợp giữa các mũi tiến công đặc biệt là phối hợp tác chiến trong nội thành các thành phố lớn mà mục tiêu trọng tâm là Sài Gòn nơi tập trung những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và bộ chỉ huy quân đội Mỹ theo nhận định của Stanley Karnow về trận tiến công vào các thành phố lớn ‘trong chiến dịch năm 1968 của Cộng sản với hi vọng một bộ phận của chính quyền đô thị trong chế độ ở miền Nam sẽ quay ra chống lại Mỹ. và mưu toan của họ muốn phá vỡ những cố gắng bình định là nhằm lôi kéo các viên chức nông thôn về phía họ. Họ cũng tin rằng miền Nam Việt Nam đã chin muồi với cách mạng những binh lính đã mệt mỏi với chính phủ …những thanh niên cứng đầu và những phần tử bất hạnh khác trong dân chúng miền Nam sẽ nổi dậy chống lại chính quyền Sài Gòn và Mỹ” theo nhận định này thì có thể thấy mục tiêu của cuộc tiến công từ nhận định của Staley Kanrow là rất lớn có thể nói với những hi vọng vào thời điểm cách mạng ở thời điểm đó cao nhất là giải phóng miền Nam ngay trong năm 1968 và thành lập một chính phủ trung lập do những người trung lập làm chủ sau đó tiến tới thống nhất về mặt lãnh thổ và chính quyền Cộng sản nắm quyền điều hành đất nước nhưng  điều này trên thực tế là khó có thể xảy ra và nếu có cũng chỉ là những binh lính và hạ sĩ quan cấp bậc thấp không có thực quyền binh lính trong tay thì không thể huy động được số lượng lớn binh lính để tập hợp lực lượng hỗ trợ cho quân giải phóng trong việc tấn công thành phố và tiêu diệt các mục tiêu quan trọng đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vào thời điểm đó và cũng theo Staley Krnow: “Cộng sản lần đầu tiên đã chuyển chiến tranh từ môi trường nông thôn đến khu vực mới là thành thị”[16;523,525]
Đây là lần đầu tiên quân giải phóng thay đổi môi trường tác chiến vốn quen thuộc của mình từ môi trường rừng núi, nông thôn thích hợp với cách đánh du kích quen thuộc sang môi trường tác chiến ở đồng bằng  trong các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng và quan trọng nhất là Sài Gòn điều kiện chiến đấu ở đồng bằng đô thị rất khác so với rừng núi nông thôn không có vật dụng để ngụy trang dễ dàng khó tận dụng được lợi thế đánh chớp nhoáng, đó là chưa nói đến các công trình phòng thủ của quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong các thành phố với lực lượng bảo vệ dày đặc được trang bị vũ khí với hỏa lực mạnh còn về phía quân giải phóng vũ khí trang bị còn đơn giản hỏa lực yếu việc hợp đồng tác chiến thực hiện chưa đồng bộ cộng với lực lượng so với đối phương chênh lệch khá nhiều nên phải bố trí nhiều trận tuyến khác nhau như lời của Staley Karnow: “họ đã chiến đấu một cách ngoan cường, đôi khi mù quáng thường bỏ rơi những chiến thuật linh hoạt của họ để giữ những vị trí không thể giữ được”[16;523,525] và kết quả của sự chiến đấu không tuân thủ chiến thuật như vậy là nhanh chóng bị đánh bật ra khỏi các mục tiêu chiếm giữ được bởi sức mạnh hỏa lực đến từ quân đội Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Các nhà sử học phương tây và một số nhà sử học Việt Nam  khi nhận xét về cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đều thống nhất nhận định rằng đây là cuộc tấn công gây thương vong nặng nề cho quân giải phóng và quân đội Bắc Việt chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định trên với sức mạnh quân sự mạnh hơn nhiều lần cho dù theo nhận định của Đảng về tình hình chiến trường miền Nam sau thất bại của Mỹ sau hai cuộc phản công chiến lược mùa khô như đã làm Mỹ suy yếu về lực lượng nhận định đó có phần chưa đúng khi mà vào thời điểm cuối năm 1967 đầu năm 1968 tổng số quân Mỹ đổ bộ vào Nam Việt Nam là hơn 500.000 quân cộng với số lượng binh lính của Việt Nam Cộng hòa, tổng số quân thời điểm đó trên toàn miền Nam Việt Nam là hơn một triệu hai trăm nghìn quân cộng thêm vũ khí được trang bị khi Mĩ có ý định tiến hành cuộc càng quét mùa khô lần thứ 3(1967-1968) nếu đem lực lượng và vũ khí trang bị cho dù quân giải phóng miền Nam có sự tăng lên về lực lượng và  vũ khí trang bị thì so sánh lực lượng hai bên vẫn có một sự chênh lệch đáng kể về sức mạnh và, sự chênh lệch đó đã được thể hiện rõ trên thực địa khi cuộc tổng công kích diễn ra và càng thể hiện rõ qua các số liệu thống kê về số lượng thương vong của quân giải phóng: theo nhà sử học  George C.Herring “con số thương vong là  40.000 người”[1;208] hay “45.000 người  trong tổng số 84.000 người mà họ đã sử dụng trong các cuộc tiến công”[1;475] của Philip B. Davidson
Không chỉ tổn thất lực lượng chiến đấu trên chiến trường mà ở các thành thị các cán bộ lãnh đạo, các cơ quan đầu não cũng bị bắt, các căn cứ chỉ huy, “các tổ chức chính trị của Cộng Sản ở miền Nam cũng bị phá vỡ bởi chương trình Phượng Hoàng của CIA”[16;534] qua những số liệu đã nêu chúng tôi muốn làm rõ những mặt chưa được trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 về quân sự trong các cuộc tiến công dù đã đánh vào hầu hết các đô thị lớn trên toàn miền Nam nhưng hầu hết các mục tiêu quan trọng đều không giữ vững được đều bị đánh bật ra khỏi các mục tiêu đó . Không những ở thành phố mà cả ở nông thôn cũng vậy.“trong vòng một năm quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm lại phần lớn những khu vực bị mất vào tay lực lượng nổi dậy và tiếp tục các cuộc hành quân bình định”[17;64]
(Còn tiếp...)

Nhận xét