Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Thế giới (1945-1949) - The Democratic Republic of Vietnam and the world, 1945 - 1949 - phần 2

Bài dịch từ The Democratic Republic of Vietnam and the world, 1945 - 1949 trong phần choossing sides (Chọn phe) dẫn theo Mari Oslen (2006), Soviet-Vietnam relations and the Role of China (1949-1964): Changing alliances, Nxb. Routledge

Trong một lời phát biểu khi thành lập Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân vào tháng 9 năm 1947 ở Ba Lan, thành viên Bộ Chính trị của Xô viết là Andrei Zhdanov đã đưa thuyết ‘hai phe’. Đó là chia thế giới ra làm 2 phe riêng biệt, 1 bên là đế quốc do Hoa Kỳ đứng đầu và còn lại là chủ nghĩa chống đế quốc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa hòa bình. Trong hoàn cảnh VNDCCH được coi là ‘liên kết’ với phe chống đế quốc chủ nghĩa, và chiến tranh Việt Minh được coi là ‘sức mạnh cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và bị phụ thuộc’. Bài phát biểu đã đánh dấu bước đầu những chiến thuật của Xô viết sau chiến tranh. Điều này đã khẳng định chính sách trên đã bắt đầu được quyết định bởi Stanlin và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, và đó là sự kiện đã sắp xếp các mối quan hệ quốc tế trong Chiến tranh Lạnh.
Trong bài phát biểu của mình thì Zhdanov đã cổ vũ các Đảng Cộng sản thế giới rằng hãy mạnh mẽ hơn trong con đường phát triển của họ. Ông đã nhấn mạnh rằng từ sức mạnh kinh tế, người Mỹ đã nhắm vào việc thành lập một tổ chức với Tây Âu nhưng bị về phụ thuộc kinh tế và chính trị vào Mỹ ví dụ như Vùng Cận Đông  và các nước phía Nam Mỹ cùng chính quyền Tưởng Giới Thạch đã tham gia vào nhóm chống chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, người Nga cũng đang trong quá trình thành lập một khối khác cùng các vùng lãnh thổ được gọi là nền dân chủ mới, đó là Đông Âu, Phần Lan, Indonesia và Việt Nam cùng với đó là bày tỏ sự ủng hộ của Ấn Độ, Ai Cập và Syria. Với sự phân chia thành hai khối như vậy, Zhdanov tuyên bố rằng những gì có thể được xem là sự tái sinh của quan điểm 'hai phe' của thế giới là đặc trưng của chính sách đối ngoại của Liên Xô vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Mặc dù thông điệp vốn có trong bài phát biểu của Zhdanov nhằm vào tất cả các Đảng Cộng sản trên thế giới, chỉ có các Đảng Cộng sản Châu Âu mới có mặt trong cuộc họp sáng lập của Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân. Nhưng không có đại diện từ bất kỳ quốc gia thuộc địa nào hoặc trước đây là thuộc địa. Để truyền tải thông điệp tới những nơi này , Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân đã quyết định tổ chức một hội nghị ở châu Á vào giữa tháng 11 cùng năm. Nhưng thông điệp tại hội nghị này chỉ phản ánh một phần dòng mới trong chính sách của Đảng Cộng sản. Điểm mấu chốt quan trọng cho những người tham dự hội thảo đã được chuyên gia về Châu Á và nhà sử học Evgenii Michalovich Zhukov bày tỏ . Ông thừa nhận về sự cần thiết cho một vai trò mạnh mẽ hơn của Đảng Cộng sản ở các thuộc địa, một thái độ mà ở một mức độ lớn hơn nhiều phản ánh cách suy nghĩ rằng điều đó đã đặc trưng hơn trước thái độ hậu Zhdanov đối với vấn đề phía Đông. Đồng thời, các hồ sơ từ hội nghị đã không xác nhận ý tưởng của chính sách Liên Xô tích cực hơn đối với thế giới thuộc địa, mà thay vào đó là thêm sự nhầm lẫn của mục đích của Mátx-cơ-va với những nước này. Cùng Zhukov, người đã phát biểu khai mạc tại hội nghị châu Á là người đã gặp Trần Văn Giàu ở New Delhi vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 năm 1947 để thảo luận về tình hình ở Việt Nam. Với vai trò học vấn, nhiệm vụ của ông là một cố vấn hơn là một nhà hoạch định chính sách, nhưng quan điểm của ông về các chính sách của Liên Xô đối với các thuộc địa đã có ảnh hưởng trong những năm sau chiến tranh.

Các sáng kiến ngoại giao của Việt Nam tại Bangkok và Mátx-cơ-va

Chúng ta đã thấy những nỗ lực của Trần Văn Giàu để thu hút sự ủng hộ từ Liên Xô vào mùa xuân năm 1947 đã không thành công. Đánh giá trước bản báo cáo về mối quan hệ Xô viết - Việt Nam, thái độ của Liên Xô đối với cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là đã thông cảm hơn sau bài phát biểu của Zhdanov. Vì vậy, bức tranh toàn cảnh nên thay đổi sau tháng 9 năm 1947, nhưng các nguồn lưu trữ của Liên Xô không ủng hộ quan điểm này. Trong giai đoạn sau cuộc họp về Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân, sự do dự của Mátx-cơ-va về vấn đề kinh tế thực tế hoặc hỗ trợ quân sự đã tăng lên. Tại thời điểm này cũng có nghi ngờ đáng kể của Hồ Chí Minh - người trung thành chính trị đã giải tán Đảng cộng sản Đông Dương.
Phạm Ngọc Thạch. Nguồn: nghiencuuquocte.org

Phạm Ngọc Thạch, người trong mùa xuân và mùa hè đã phụ trách việc tiếp cận chính phủ Hoa Kỳ, và gặp gỡ phái viên Liên Xô tới Thụy Sĩ, Anatolii Georgevich Kulazhenkov, ở Bern vào đầu tháng 9 năm 1947. Phạm Ngọc Thạch, sau đó được miêu tả như là phó thư ký nhà nước của Chủ tịch Đoàn Hội đồng Bộ trưởng VNDCCH, ở Thụy Sĩ với lý do được điều trị bệnh lao. Mục đích chính của ông là thực hiện một chuyến đi giấu sang Pháp, nơi ông được cho là trình bày các thông tin của mình cho những người Cộng sản Pháp hàng đầu là Maurice Thorez và Jacques Duclos. Ông đến Bern với Nhiệm vụ Xô viết để cung cấp thông tin về tình hình hiện tại ở Việt Nam. Mô tả cách chính phủ VNDCCH tổ chức cuộc chiến chống quân đội Pháp, ông nhấn mạnh việc thiếu vũ khí trong quân đội Việt Nam. Các đơn vị quân sự không có trang thiết bị cần thiết, và chính phủ không có đủ ngoại tệ để mua những gì họ cần. Ngoài ra còn một thiếu cán bộ cấp cao để nắm quyền. Do tình hình mà ĐCSTQ quyết định giúp Việt Nam và gửi một nhóm cố vấn quân sự.
Về tình hình lúc đó ở Đông Nam Á, Phạm Ngọc Thạch nhấn mạnh rằng trong cuộc chiến giành độc lập Đảng Cộng sản đã được thành lập nhiều ở các quốc gia và có ảnh hưởng quan trọng với người dân. Anh ấy nhấn mạnh vai trò của Việt Nam là trung tâm gia tăng ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Nam châu Á. Trên đường tới châu Âu, Phạm Ngọc Thạch đã gặp lãnh đạo cộng sản ở các nước Đông Nam Á khác như Malaysia và Miến Điện. Ông cũng nói họ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ("Kompartii Vietnama") có lên kế hoạch một đại hội cho tất cả các Đảng Cộng sản ở Đông Nam Á vào năm 1947, nhưng điều này đã chứng minh là không thể do cuộc chiến đang diễn ra giữa Việt Nam và Pháp. Liên quan đến Đảng Cộng sản Pháp (PCF) Phạm Ngọc Thạch đã báo cáo rằng cho đến nay không thảo luận về câu hỏi của Việt Nam và đã không làm gì đáng kể để cản trở cuộc chiến tranh đế quốc Pháp và Việt Nam.
Trong Đảng Cộng sản Pháp, thái độ hỗ trợ cho Việt Minh đã thay đổi vào năm 1947. Họ chỉ giúp đỡ hỗ trợ về chính trị và ngoại giao rất thận trọng với VNDCCH, vào năm 1946 trong khi Đảng Cộng sản Pháp còn là thành viên của chính phủ và chiến tranh của chính phủ Pháp vẫn chưa nổ ra ở Đông Dương. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1947, chiến tranh đã trở thành một vấn đề được tranh luận lớn ở Pháp, và Đảng Cộng sản Pháp bị trục xuất khỏi chính phủ. Họ giờ đã trở nên thông cảm hơn với Việt Minh nhưng không có bất kỳ quyền lực thực sự nào ở Pháp cũng như không ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh. Sau khi Đảng Cộng sản Pháp rời liên minh chính phủ Pháp, Liên Xô cũng bắt đầu lên tiếng một số hỗ trợ cho VNDCCH và đổ lỗi cho cuộc nội chiến ở Đông Dương về các chính sách phản động của Pháp và các cuộc diễn tập đế quốc Anh. Theo Mátx-cơ-va, Chính phủ Pháp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tình hình. Phạm Ngọc Thạch cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiều phe phái khác nhau trong Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tế rằng Đảng này không phải là một thực thể được công nhận  ở châu Âu. Theo ông, hai lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp đã liên lạc bày tỏ quan điểm rằng Việt Nam nên tập trung tất cả năng lượng của mình vào cuộc chiến giành độc lập và không nhượng bộ trước đế quốc Pháp.
Mô tả thái độ đối với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, Phạm Ngọc Thạch cho rằng các nước này bị ghét ở tất cả các nước Đông Nam Á; tuy nhiên, mặc dù vị trí của Mỹ ngày càng trở nên vững chắc. Các nước tràn lan hàng hóa của Mỹ, và người Mỹ giả vờ không chống lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Họ thậm chí còn khuyến khích nó, giả sử rằng ngay sau khi các nước không bị ảnh hưởng bởi Anh, Pháp và Hà Lan, họ sẽ tự động rơi vào tay người Mỹ. Theo tùy viên của quân đội Hoa Kỳ tại Xiêm La, người đã tuyên bố sự cảm thông của mình với người Việt Nam, người Mỹ không thể can thiệp vào cuộc chiến và không có kế hoạch hỗ trợ người Pháp. Phạm Ngọc Thạch cũng bày tỏ mong muốn được thăm Liên Xô và đích thân thông báo cho họ về tình hình ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, ông không muốn có visa của Liên Xô trong hộ chiếu vì điều đó có thể gây ra vấn đề khi ông cố gắng trở về Thái Lan (Xiêm).
Không có hồ sơ hỗ trợ trực tiếp từ Liên Xô cho người Việt Nam vào năm 1948. Tuy nhiên, Hội nghị Thanh niên Đông Nam Á diễn ra tại Calcutta vào tháng 2 năm 1948 đã được coi là một bước ngoặt, và đã có nhiều cuộc thảo luận về vai trò của hội nghị Calcutta trong các chiến lược của Liên Xô hướng tới Đông Nam Á. Theo một học giả, Việt Nam đã nhận được nhiều sự chú ý của Liên Xô sau hội nghị Calcutta và sự chấp thuận của Liên Xô từ mùa xuân cùng năm. Hội nghị diễn ra từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 2 và được tổ chức từ cả Cộng sản và phi Cộng sản. các quốc gia đã cử các đoàn của họ tham gia, hoặc quan sát, hay cho công việc của họ. Nhiều cuộc thảo luận tại hội nghị xoay quanh học thuyết 'hai phe' do Zhdanov trình bày vào tháng 9 năm 1947, và bầu không khí chung đã lan tỏa cho dân quân trong phong trào Cộng sản thế giới.
Vì sự bùng nổ của nhiều cuộc nổi dậy do cộng sản lãnh đạo ngay sau hội nghị, đã có cáo buộc rằng Mátx-cơ-va đã sử dụng hội nghị để truyền các chỉ dẫn cho các Đảng Đông Nam Á. Hai lập luận cụ thể cho rằng điều này là bất khả thi. Đầu tiên là thành phần của hội nghị không làm cho nó trở thành một phương tiện phù hợp cho các chỉ dẫn cách mạng. Hầu hết những người tham gia đều không phải là cộng sản, và Mátx-cơ-va không xem các cuộc họp như Hội nghị Thanh niên Đông Nam Á là một công cụ mang tính cách mạng, mà còn là một đấu trường để đưa ra những ý tưởng của Mátx-cơ-va về các vấn đề thế giới đối với những người có đồng ý tưởng và cánh tả Cộng sản. Thứ hai, có câu hỏi ai sẽ chịu trách nhiệm về việc truyền những hướng dẫn này. Đoàn đại biểu của Liên Xô đến hội nghị bao gồm một nhóm người Trung Á, không ai trong số họ nắm giữ các chức vụ cao cấp trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Không chắc rằng bất kỳ ai trong số này đã được tin cậy để truyền đạt các chỉ dẫn đó, và, ngoài ra, có rất ít người đại diện Cộng sản khác nhận được những chỉ dẫn như vậy. Cộng sản Đông Nam Á duy nhất được biết đến tham dự hội nghị là lãnh đạo Đảng của người Miến Điện tên là Than Tun.
Sự thiếu các tài liệu về hội nghị Calcutta trong ngoại giao của Xô viết và hồ sơ của Đảng Cộng sản làm giảm khả năng hội nghị này đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền các hướng dẫn từ Liên Xô đến các Đảng Cộng sản ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, vẫn có những nguồn chưa được khám phá có thể tiết lộ nhiều hơn về hội nghị, chẳng hạn như hội nghị của Tổ chức thanh niên Liên Xô (Komsomol). Nhưng ngay cả khi hội nghị không được sử dụng để truyền đạt các chỉ dẫn, nó cũng được cho rằng nó đã phục vụ một mục đích hữu ích trong chiến lược của Liên Xô. Lý do cho điều đó là nhấn mạnh vào việc thảo luận về các lý thuyết Zhdanov và thực tế là một người tham gia sau khi một người khác lên tiếng ủng hộ chủ nghĩa chống chủ nghĩa đế quốc. Cho dù Mátx-cơ-va đã chấp thuận về nhiều hơn một khóa học chiến đấu được thực hiện bởi những người Cộng sản Đông Nam Á sau khi Calcutta thì sẽ khó thiết lập thông qua các tài liệu có sẵn. Không có mô hình cố định trong phản ứng của Liên Xô đối với các cuộc nổi dậy sắp tới ở Đông Nam Á. Cũng không có bất kỳ kết luận đáng kể nào từ kinh nghiệm của Đảng Cộng sản ở đây để có thể áp dụng cho phần còn lại của thế giới thuộc địa. Vì vậy, kết luận tổng thể phải là, để tìm giải thích cho những cuộc nổi dậy ở các nước Đông Nam Á trong những năm đó, sẽ có nhiều kết quả hơn để xem xét các điều kiện trong bản thân các quốc gia.
Cho dù đó là do hội nghị Calcutta hay không, về cơ bản từ năm 1948 về các cuộc họp giữa các đại diện của Liên Xô và Việt Nam diễn ra thường xuyên hơn. Chủ đề định kỳ tại các cuộc họp này là câu hỏi về sự giúp đỡ của Liên Xô đối với người Việt Nam, cả về kinh tế và quân sự. Tại một cuộc họp ở Mátx-cơ-va vào cuối tháng 8 năm 1948 giữa các phó phòng thông tin Việt Nam tại Bangkok, Lê Hy, và M. Sh. Bakhitov, Phó trưởng bộ phận Đông Nam Á (SEAD) trong Bộ Ngoại giao Xô viết, những vấn đề này đã được nêu ra. Mục đích của cuộc họp , theo Lê Hy, để báo cáo về tình hình ở Việt Nam. Lê Hy thông báo với Bakhitov rằng tại thời điểm đó Cộng hòa Việt Nam ('Respublika Viet-Nam') đã có ba năm chiến đấu chống lại sự can thiệp quân sự của Pháp, được hỗ trợ bởi người Anh và người Mỹ và với sự chấp thuận ngầm của phái đoàn Trung Quốc Quốc dân Đảng tại Trung Quốc . Do vị trí địa lý của Việt Nam (Trung Quốc ở phía bắc và lực lượng Pháp ở phía nam) và tình hình chính trị quốc tế đang phát triển, Việt Nam đã chiến đấu mà không cần bất kỳ sự giúp đỡ hay hỗ trợ nào - ngoại trừ đạo đức - từ bên ngoài. Vì lý do chiến thuật, các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định giải tán Đảng thành các tổ chức dân chủ và đoàn thể khác nhau để ngăn cản nó chính thức đứng ra như là lực lượng hàng đầu trong chính phủ và trong quần chúng nhân dân. Sự nhấn mạnh của Lê Hy về việc phân chia đảng có thể là cách bảo vệ chính thức do sự giải thể của Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 11 năm 1945, đã gây ra sự nghi ngờ ở Mátx-cơ-va .

Người dịch: Lê Nam
Hiệu đính: Trường Minh

Nhận xét