Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý (1009 - 1225)



Nhà nước quân chủ thời Lý mà vua Lý Thái Tổ là người đầu tiên xây dựng, đặt nền tảng cho sự phát triển về sau là một nhà nước quân chủ tập trung quan liêu với hệ thống chính trị thống nhất từ trung ương tới địa phương được tập trung quyền hành vào trong tay triều đình, đứng đầu là vua.
Bắt đầu từ thời Lý, tổ chức chính quyền ở cấp trung ương (hay còn gọi là các cơ quan thuộc nền hành chính trung ương) đã được kiện toàn và hoàn thiện hơn so với thời Đinh và Tiền Lê trước đó, gồm ba bộ phận chủ yếu là: Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua, Các cơ quan đầu não tại triều đình và Các cơ quan chuyên môn:
Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua
Vào thời Lý đặt chưa đầy đủ như ở thời Trần và thời Lê Sơ sau đó. Từ thời Trần và đặc biệt là thời Lê Sơ về sau, những văn thư phòng giúp việc cho vua bao gồm đủ cả ba bộ phận, đó là: các Sảnh (hay còn gọi là các tỉnh như Thượng thư tỉnh, Trung thư tỉnh,  Môn hạ tỉnh,  Hoàng môn tỉnhNội thị tỉnh); Hàn lâm viện và Bí thư giám. Nhưng dưới thời Lý, Bí thư giám chưa được đặt nên chỉ mới có hai văn phòng bên cạnh vua và giúp việc cho vua là Sảnh và Hàn lâm viện.
Sảnh 
Gồm có Thượng thư sảnhTrung thư sảnh, không rõ được đặt ra như thế nào và vào lúc nào dưới thời Lý.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí có đoạn “Đến đời Thần Tông lại đặt chức viên ngoại ở thượng thư sảnh, dự làm chính sự, danh vị cũng trọng. Quan trong quan ngoài thường gia thêm chức ấy (như nội thị là bọn Phí Công Tín, Hàn Quốc Bảo đều gia chức viên ngoại lang; coi việc phủ Thanh Hóa là bọn Phạm Tín, Dương Chưởng cũng gia chức viên ngoại lang)” [1].
Theo Đại việt sử ký toàn thư thì: “Mậu Thân, [Thiên Thuận] năm thứ 1 [1128]. Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Dậu, cho Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây thượng cáp môn sứ, Thượng thư sảnh viên ngoại lang Lý Bảo Thần hành đông thượng cáp môn sứ, Phạm Thưởng, Đỗ Lục, Khổng Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát, Lý Khái, Đào Lão, Nguyễn Hoàn làm Viên ngoại lang Thượng thư sảnh…[2]
Như vậy, vào thời Lý đã có cơ quan là Sảnh, nên mới có việc đặt các chức quan của Thượng thư sảnhTrung thư sảnh như sử sách vừa ghi.
Hàn lâm viện 
Được lập ra đầu tiên ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) và đứng đầu Hàn lâm viện là chức quan Hàn lâm học sĩ.
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi: “Bính Dần, [Quảng Hựu] năm thứ 2 [1086]. Mùa thu, tháng 8, thi người có văn học trong nước, sung vào làm quan ở Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ [3].
Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi: “Đời Lý đã đặt hàn lâm viện và đặt chức học sĩ (trong đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích làm hàn lâm học sĩ)” [4].
Trong phần Xét thì ghi rõ: “…Ban văn thì có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang (thuộc quan thì có các chức trung thư thừa, trung thư xá nhân), bộ thị lang, tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viên ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ,… [5]
Hàn lâm viện có nhiệm vụ trông coi việc soạn thảo những chế, cáo và chiếu biểu của vua.
Chức Hàn lâm học sĩ, đến các thời Trần và Lê Sơ còn gọi là Hàn lâm phụng chỉ và Hàn lâm học sĩ phụng chỉ, là chức vụ rất trọng, thường dùng Thái sư, Mật viện kiêm nhiệm. Công việc của quan Hàn lâm phụng chỉ là soạn đặt tờ chiếu thay vua.
Các cơ quan đầu não tại triều đình
Cùng với việc đặt các cơ quan đầu não tại triều đình, nhà Lý đã đặt ra những chức quan đứng đầu triều. Những chức quan đứng đầu triều đều là những quan lại được vua uỷ nhiệm trực tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị trong nước. Đó là Tể tướng và Á tướng.
Tể tướng
Chức vụ Tể tướng từ thời Đinh trở về trước gọi là gì không rõ, đến thời Tiền Lê, Lê Đại Hành mới đặt ra chức tổng quản [6] coi việc quân dân, thâu tóm việc nước, tức là công việc của Tể tướng.
Bắt đầu từ thời Lý, khi mới dựng nước, vua Lý Thái Tổ đã cho Trần Cảo làm tướng công [7]. Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về việc này như sau: “Lý Thái Tổ mới dựng nước, cho Trần Cao làm tướng công, tên chức rất quê”. [8]
Đến đời vua Lý Thái Tông “mới dùng chức phụ quốc Thái uý giữ chính sự, chức nhiệm cầm cân, tức là tể tướng”. [9]
Tiếp đến đời Lý Nhân Tông lại thêm mấy chữ “kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự”, thì tên quan cũng nhã mà chức vụ càng trọng [10].
Vào thời Lý đã có những người từng giữ chức vụ Tể tướng với nhiều danh vọng như: Lý Thường Kiệt [11] dưới triều vua Lý Thánh Tông; Lý Đạo Thành [12] dưới triều vua Lý Nhân Tông; Tô Hiến Thành [13] và Đỗ An Di (em trai Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu - Đỗ thị) [14] dưới triều vua Lý Anh Tông,…
Á tướng 
Là chức vụ của viên quan đứng sau Tể tướng và đứng ở vị trí thứ hai tại triều đình. Vào thời Lý, chức Á tướng là Tả, Hữu tham tri chính sự. Á tướng có nhiệm vụ giúp Tể tướng điều khiển mọi việc trong nước, còn gọi là Phó tướng.
Thời kỳ này, nhà Lý còn đặt thêm chức hành khiển, chuyên dùng trung quan (tức là hoạn quan) để gia thêm danh hiệu nhập nội hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Chức hàm rất trọng, vì đó là chức quan giữ then chốt về chính sự [15].
Dưới Tể tướngÁ tướng - hai chức quan đứng đầu và đứng thứ hai trong triều, là các cơ quan chính yếu như: Khu mật viện và các Bộ.
Khu mật viện 
Được lập ra từ thời Lý. Đứng đầu Khu mật viện là hai chức quan Tả sứ và Hữu sứ [16] trông coi việc binh. Làm việc trong Khu mật viện đều là những quan thân cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật trong triều.
Dưới triều vua Lý Thái Tổ, có Ngô Đinh được làm Khu mật sứ [17].
Sang thời Lý Thái Tông thì có Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật và Xung Tân làm Hữu khu mật [18]. Những người này đều là công thần thân cận được vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ban chức tước ngay từ sau khi nhà vua lên ngôi.
Các Bộ
Vào thời Lý nói chung chưa thấy có sự phân định rõ ràng.
Tuy vậy, ở thời kỳ này, chức Thượng thư đứng đầu bộ đã bắt đầu được đặt. Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến chương loại chí rằng: “Chức Thượng thư đặt ra bắt đầu từ thời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. (Đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích, Đoàn Văn Khâm đều làm Thượng thư)” [19].
Chức Thị lang cũng đã được đặt ở thời kỳ này.Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi, “Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 [1118], đặt chức bộ thị lang” [20].
Biên niên sử thì chưa ghi đầy đủ tên các Bộ của thời Lý mà chỉ thấy nhắc đến tên của hai Bộ, là Bộ Lễ và Bộ Hộ qua hai sự kiện ghi vào năm Mậu Tuất (1118), Tả thị lang Bộ Hộ là Lý Tú Uyên chết [21]; năm Giáp Thìn (1124), Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm Thị lang Bộ Lễ [22] và năm Quí Hợi (1203), Lại bộ Thượng thư Từ Anh Nhĩ tâu với vua đàn hặc Đàm Dĩ Mông là kẻ “mọt dân hại nước”.
Điều này cũng được Phan Huy Chú nhấn mạnh là “Đời Lý buổi đầu đặt quan, đã có những chức trung thư thị lang, bộ thị lang, nhưng [các bộ] không đặt đủ” [23]. Có lẽ do sự ghi chép không đầy đủ trong chính sử nên sự hiểu biết về các Bộ của thời Lý từ trước tới nay cũng chưa được đầy đủ.
Nhưng theo nguồn tài liệu văn bia của thời Lý đã được dịch và công bố trong tập Thơ văn Lý - Trần, xuất bản năm 1977, thì vào thời Lý đã có đầy đủ các bộ, nhất là từ triều vua thứ tư của nhà Lý là Lý Nhân Tông (1072 - 1127) trở đi. Theo lời chú cuối cùng của Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa núi Long Đội (thuộc xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) dựng vào ngày 6 tháng 7, niên hiệu Thiên Phù Duệ vũ thứ hai (1121) cho biết, người được vâng sắc chỉ của vua Lý Nhân Tông để soạn bài văn của bia này là Nguyễn Công Bật, đang giữ chức Triều liệt, Hình bộ Thượng thư, Binh Bộ Viên ngoại lang đồng tri phiên công viện chư sự và người viết chữ bài văn bia là Lý Bảo Cung, đang giữ chức Hữu thị lang, Thượng thư, Công Bộ Viên ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thượng kinh xa đô uý, tử kim ngư. Dưới triều vua Lý Nhân Tông còn có Trần Văn Khâm cũng từng giữ chức Thượng thư Bộ Công, Phùng Giáng Tường giữ chức Thượng thư Bộ Binh. Hoặc Từ Anh Nhĩ từng giữ chức Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Trong Văn bia về Thái uý Lý công nước Đại Việt (Cự Việt quốc Thái uý Lý công thạch bi minh tự ) khi nói về công trạng của Thái uý có đoạn ghi: “Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái uý được truyền vào chầu ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ thượng thư. 
Như vậy, theo ghi chép trong chính sử cộng với những ghi chép trong văn bia Lý - Trần thì vào thời Lý đã có đủ sáu Bộ, đó là các bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình và Công.
Các cơ quan chuyên môn
Để giúp việc cho các cơ quan đầu não tại triều đình, các vua nhà Lý cũng như các vua nhà Trần và nhà Lê sau đó đều đặt ra các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử viện, Thái chúc viện, Quốc tử giám, Các cơ quan coi về hình án (Đình uý ty, Ngũ hình viện), Ngự tiền tam cuộc (Cận thị Chi hậu và Học sĩ - trông coi về việc binh của nhà vua)…
Nhưng vào thời Lý chưa đặt đầy đủ các cơ quan chuyên môn này. Cơ quan chuyên môn đầu tiên được đặt vào thời Lý là Quốc tử giám - cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục trong nước.
Quốc tử giám được lập bắt đầu từ thời Lý, vào năm 1076, dưới triều vua Lý Thánh Tông, nhưng tên các chức quan của cơ quan này chưa rõ như thế nào.
Sang thời Trần mới thấy sử ghi về việc đặt chức Tư nghiệp Quốc tử giám (Chu Văn An làm chức này), thời Lê Sơ đặt rất nhiều tên như các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ, Ngũ kinh bác sĩ

SƠ ĐỒ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRUNG ƯƠNG DƯỚI THỜI LÝ

(còn tiếp...)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Lịch triều hiến chương loại chí -  tập một, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr.558.
[2] Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Đại Việt Sử ký Toàn thư tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.315-316.
[3] Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.298.
[4] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.557.
[5] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.528.
[6] Lê Đại Hành, năm đầu, đặt quan có các chức thái sư, thái úy, tổng quản, đô chỉ huy sứ (như Hồng Kính người Trung Quốc làm Thái sư, Phạm Cự Lượng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại Tổng quản tri quân dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ). Dẫn theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.527.
[7]  Kỷ Dậu, [Cảnh Thụy] năm thứ 2 [1009]… Trần Cảo làm Tướng công, Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó,… Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu v tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.246.
[8] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[9] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[10] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[11] Ất Dậu, [Long Phù] năm thứ 5 [1105]. Thái úy Lý Thường Kiệt chết… Vì có công, được phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được phong làm Thái úy, rồi chết. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.302.
[12] Giáp Dần, [Thái Ninh] năm thứ 3 [1074]. Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.294.
[13] Ất Mùi, [Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ 2 [1175]. Mùa xuân, tháng giêng, sách lập Long Trát làm Hoàng Thái tử, ở Đông cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ Đông cung. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.346.
[14] Cho Đỗ An Di (em trai hoàng thái hậu) làm Thái sư đồng bình chương sự. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.347.
[15] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.529.
[16] Ở đời Lý, chức quan coi việc dân gọi là khu mật, có tả [sứ], hữu sứ. Dẫn theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.555.
[17] Kỷ Dậu, [Cảnh Thụy] năm thứ 2 [1009]… Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó,… Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu v tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.246.
[18] Mậu Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 19 [1028]… Lấy Lương Nhậm Văn làm Thái sư. Ngô Thượng Đinh làm Thái phó, Đào Xử Trung làm Thái bảo, Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Lý Triệt làm Thiếu sư, Xung Tân làm Hữu khu mật, Lý Mật làm Tả tham tri chính sự,… Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu v tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.263.
[19] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.555.
[20] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.528.
[21] Mậu Tuất, [Hội Tường Đại Khánh] năm thứ 9 [1118]… Tả thị lang bộ Hộ là Lý Tú Quyên chết. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu v tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.306.
[22] Giáp Thìn, [Thiên Phù Duệ Vũ] năm thứ 5 [1124]… Lại cho Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm thị lang bộ Lễ. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu v tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.310.
[23] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.556.


Nhận xét