Nhà nước quân chủ thời Lý mà
vua Lý Thái Tổ là người đầu tiên xây dựng, đặt nền tảng cho sự phát triển về
sau là một nhà nước quân chủ tập trung quan liêu với hệ thống chính trị thống
nhất từ trung ương tới địa phương được tập trung quyền hành vào trong tay triều
đình, đứng đầu là vua.
Bắt đầu từ thời Lý, tổ chức
chính quyền ở cấp trung ương (hay còn gọi là các cơ quan thuộc nền hành chính
trung ương) đã được kiện toàn và hoàn thiện hơn so với thời Đinh và Tiền Lê
trước đó, gồm ba bộ phận chủ yếu là: Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh
vua, Các cơ quan đầu não tại triều đình và Các cơ quan chuyên
môn:
Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh
vua
Vào thời Lý đặt chưa đầy đủ như
ở thời Trần và thời Lê Sơ sau đó. Từ thời Trần và đặc biệt là thời Lê Sơ về
sau, những văn thư phòng giúp việc cho vua bao gồm đủ cả ba bộ phận, đó là:
các Sảnh (hay còn gọi là các tỉnh như Thượng thư tỉnh, Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Hoàng
môn tỉnh và Nội thị tỉnh); Hàn
lâm viện và Bí thư giám. Nhưng dưới thời Lý, Bí thư giám chưa được đặt nên chỉ mới có
hai văn phòng bên cạnh vua và giúp việc cho vua là Sảnh và Hàn
lâm viện.
Sảnh
Gồm có Thượng thư sảnh và Trung thư
sảnh, không rõ được đặt ra như thế nào và vào lúc nào dưới thời Lý.
Sách Lịch triều hiến
chương loại chí có đoạn “Đến đời Thần Tông lại đặt chức viên ngoại ở thượng
thư sảnh, dự làm chính sự, danh vị cũng trọng. Quan trong quan ngoài thường gia
thêm chức ấy (như nội thị là bọn Phí Công Tín, Hàn Quốc Bảo đều gia chức viên
ngoại lang; coi việc phủ Thanh Hóa là bọn Phạm Tín, Dương Chưởng cũng gia chức
viên ngoại lang)” [1].
Theo Đại việt sử ký toàn thư
thì: “Mậu Thân, [Thiên Thuận] năm thứ 1 [1128]. Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ
Dậu, cho Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây
thượng cáp môn sứ, Thượng thư sảnh viên ngoại lang Lý Bảo Thần hành
đông thượng cáp môn sứ, Phạm Thưởng, Đỗ Lục, Khổng Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát,
Lý Khái, Đào Lão, Nguyễn Hoàn làm Viên ngoại lang Thượng thư sảnh…”. [2]
Như vậy, vào thời Lý đã có cơ
quan là Sảnh, nên mới có việc đặt các
chức quan của Thượng thư sảnh và Trung thư sảnh như sử sách vừa ghi.
Hàn lâm viện
Được lập ra đầu tiên ở nước ta
bắt đầu từ thời Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) và đứng đầu Hàn
lâm viện là chức quan Hàn lâm học sĩ.
Sách Đại Việt Sử ký Toàn
thư ghi: “Bính Dần, [Quảng Hựu] năm thứ 2 [1086]. Mùa thu, tháng 8, thi người có
văn học trong nước, sung vào làm quan ở Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích trúng
tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ [3].
Sách Lịch triều hiến
chương loại chí ghi: “Đời Lý đã đặt hàn lâm viện và đặt chức học sĩ (trong
đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích làm hàn lâm học sĩ)” [4].
Trong phần Xét thì ghi rõ: “…Ban văn thì có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả
hữu gián nghị và trung thư thị lang (thuộc quan thì có các chức trung thư thừa,
trung thư xá nhân), bộ thị lang, tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viên
ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư,
điện học sĩ, hàn lâm học sĩ,… [5]
Hàn lâm viện có nhiệm vụ trông
coi việc soạn thảo những chế, cáo và chiếu biểu của vua.
Chức Hàn lâm học sĩ, đến các
thời Trần và Lê Sơ còn gọi là Hàn lâm phụng chỉ và Hàn lâm học sĩ phụng chỉ, là
chức vụ rất trọng, thường dùng Thái sư, Mật viện kiêm nhiệm. Công việc của quan
Hàn lâm phụng chỉ là soạn đặt tờ chiếu thay vua.
Các cơ quan đầu não tại triều đình
Cùng với việc đặt các cơ quan
đầu não tại triều đình, nhà Lý đã đặt ra những chức quan đứng đầu triều. Những
chức quan đứng đầu triều đều là những quan lại được vua uỷ nhiệm trực tiếp điều
khiển toàn bộ nền cai trị trong nước. Đó là Tể tướng và Á
tướng.
Tể tướng
Chức vụ Tể tướng từ
thời Đinh trở về trước gọi là gì không rõ, đến thời Tiền Lê, Lê Đại Hành mới
đặt ra chức tổng quản [6] coi việc quân dân, thâu
tóm việc nước, tức là công việc của Tể
tướng.
Bắt đầu từ thời Lý, khi mới
dựng nước, vua Lý Thái Tổ đã cho Trần Cảo làm tướng công [7]. Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về
việc này như sau: “Lý Thái Tổ mới dựng nước, cho Trần Cao làm tướng công, tên
chức rất quê”. [8]
Đến đời vua Lý Thái Tông “mới dùng
chức phụ quốc Thái uý giữ chính sự,
chức nhiệm cầm cân, tức là tể tướng”. [9]
Tiếp đến đời Lý Nhân Tông lại thêm
mấy chữ “kiểm hiệu bình chương quân quốc
trọng sự”, thì tên quan cũng nhã mà chức vụ càng trọng [10].
Vào thời Lý đã có những người
từng giữ chức vụ Tể tướng với nhiều
danh vọng như: Lý Thường Kiệt [11] dưới triều vua Lý Thánh
Tông; Lý Đạo Thành [12] dưới triều vua Lý Nhân
Tông; Tô Hiến Thành [13] và Đỗ An Di
(em trai Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu - Đỗ thị) [14] dưới triều vua Lý Anh
Tông,…
Á tướng
Là chức vụ của viên quan đứng
sau Tể tướng và đứng ở vị trí thứ hai
tại triều đình. Vào thời Lý, chức Á tướng
là Tả, Hữu tham tri chính sự. Á
tướng có nhiệm vụ giúp Tể tướng
điều khiển mọi việc trong nước, còn gọi là Phó
tướng.
Thời kỳ này, nhà Lý còn đặt
thêm chức hành khiển, chuyên dùng trung quan (tức là hoạn quan) để gia thêm danh hiệu nhập nội
hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Chức hàm rất trọng,
vì đó là chức quan giữ then chốt về chính sự [15].
Dưới Tể tướng và Á tướng - hai
chức quan đứng đầu và đứng thứ hai trong triều, là các cơ quan chính yếu như: Khu
mật viện và các Bộ.
Khu mật viện
Được lập ra từ thời Lý. Đứng
đầu Khu mật viện là hai chức
quan Tả sứ và Hữu sứ [16]
trông coi việc binh. Làm việc trong Khu
mật viện đều là những quan thân cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật
trong triều.
Dưới triều vua Lý Thái Tổ, có
Ngô Đinh được làm Khu mật sứ [17].
Sang thời Lý Thái Tông thì có
Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật và Xung Tân
làm Hữu khu mật [18]. Những người này đều là
công thần thân cận được vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ban chức tước ngay từ
sau khi nhà vua lên ngôi.
Các Bộ
Vào thời Lý nói chung chưa thấy
có sự phân định rõ ràng.
Tuy vậy, ở thời kỳ này,
chức Thượng thư đứng đầu bộ đã bắt đầu được đặt. Phan Huy Chú viết
trong Lịch triều hiến chương loại chí rằng: “Chức Thượng thư
đặt ra bắt đầu từ thời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. (Đời Nhân
Tông, Mạc Hiển Tích, Đoàn Văn Khâm đều làm Thượng thư)” [19].
Chức Thị lang cũng đã được đặt
ở thời kỳ này.Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi, “Năm
Hội Tường Đại Khánh thứ 9 [1118], đặt chức bộ thị lang” [20].
Biên niên sử thì chưa ghi đầy
đủ tên các Bộ của thời Lý mà chỉ thấy nhắc đến tên của hai Bộ, là Bộ Lễ và Bộ
Hộ qua hai sự kiện ghi vào năm Mậu Tuất (1118), Tả thị lang Bộ Hộ là Lý Tú Uyên
chết [21]; năm Giáp Thìn (1124),
Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm Thị lang Bộ Lễ [22] và năm Quí Hợi (1203),
Lại bộ Thượng thư Từ Anh Nhĩ tâu với vua đàn hặc Đàm Dĩ Mông là kẻ “mọt dân hại
nước”.
Điều này cũng được Phan Huy Chú
nhấn mạnh là “Đời Lý buổi đầu đặt quan, đã có những chức trung thư thị lang, bộ
thị lang, nhưng [các bộ] không đặt đủ” [23]. Có lẽ do sự ghi chép
không đầy đủ trong chính sử nên sự hiểu biết về các Bộ của thời Lý từ trước tới
nay cũng chưa được đầy đủ.
Nhưng theo nguồn tài liệu văn
bia của thời Lý đã được dịch và công bố trong tập Thơ văn Lý - Trần,
xuất bản năm 1977, thì vào thời Lý đã có đầy đủ các bộ, nhất là từ triều vua
thứ tư của nhà Lý là Lý Nhân Tông (1072 - 1127) trở đi. Theo lời chú cuối cùng
của Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa núi Long Đội (thuộc
xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) dựng vào ngày 6 tháng 7, niên hiệu
Thiên Phù Duệ vũ thứ hai (1121) cho biết, người được vâng sắc chỉ của vua Lý
Nhân Tông để soạn bài văn của bia này là Nguyễn Công Bật, đang giữ
chức Triều liệt, Hình bộ Thượng thư, Binh Bộ Viên
ngoại lang đồng tri phiên công viện chư sự và người viết chữ bài văn bia
là Lý Bảo Cung, đang giữ chức Hữu thị lang, Thượng thư, Công
Bộ Viên ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thượng kinh xa đô uý,
tử kim ngư.
Dưới triều vua Lý Nhân Tông còn có Trần Văn Khâm cũng từng giữ chức Thượng
thư Bộ Công,
Phùng Giáng Tường giữ chức Thượng thư Bộ Binh.
Hoặc Từ Anh Nhĩ từng giữ chức Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua
Lý Cao Tông (1176 - 1210). Trong Văn bia về
Thái uý Lý công nước Đại
Việt (Cự Việt quốc Thái uý Lý công thạch bi minh tự ) khi nói về công
trạng của Thái uý có đoạn ghi: “Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái uý
được truyền vào chầu ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ thượng thư.
Như vậy, theo ghi chép trong
chính sử cộng với những ghi chép trong văn bia Lý - Trần thì vào thời Lý đã có
đủ sáu Bộ, đó là các bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình và Công.
Các cơ quan chuyên môn
Để giúp việc cho các cơ quan
đầu não tại triều đình, các vua nhà Lý cũng như các vua nhà Trần và nhà Lê sau
đó đều đặt ra các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử viện, Thái chúc
viện, Quốc tử giám, Các cơ quan coi về hình án (Đình uý ty, Ngũ hình
viện), Ngự tiền tam cuộc (Cận thị Chi hậu và Học sĩ - trông
coi về việc binh của nhà vua)…
Nhưng vào thời Lý chưa đặt đầy
đủ các cơ quan chuyên môn này. Cơ quan chuyên môn đầu tiên được đặt vào thời Lý
là Quốc tử giám -
cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục trong nước.
Quốc tử giám được lập bắt đầu từ thời Lý,
vào năm 1076, dưới triều vua Lý Thánh Tông, nhưng tên các chức quan của cơ quan
này chưa rõ như thế nào.
Sang thời Trần mới thấy sử ghi
về việc đặt chức Tư nghiệp Quốc tử giám (Chu Văn An làm chức
này), thời Lê Sơ đặt rất nhiều tên như các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác
sĩ, Giáo thụ, Ngũ kinh bác sĩ…
SƠ ĐỒ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRUNG ƯƠNG DƯỚI THỜI LÝ
(còn tiếp...)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Lịch triều hiến chương loại chí - tập một, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr.558.
[2]
Bản in Nội các quan bản: Mộc bản
khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản,
tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004),
Đại Việt Sử ký Toàn thư tập I, Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.315-316.
[3]
Bản in Nội các quan bản: Mộc bản
khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản,
tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004),
Sđd, tr.298.
[4]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.557.
[5] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy
Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.528.
[6]
Lê Đại Hành, năm đầu, đặt quan có các chức thái sư, thái úy, tổng quản, đô chỉ
huy sứ (như Hồng Kính người Trung Quốc làm Thái sư, Phạm Cự Lượng làm Thái úy,
Từ Mục làm Đại Tổng quản tri quân dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ).
Dẫn theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch
Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd,
tr.527.
[7]
Kỷ Dậu, [Cảnh Thụy] năm thứ 2 [1009]… Trần Cảo làm Tướng công, Ngô
Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó,… Dẫn theo
Bản in Nội các quan bản: Mộc bản
khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả,
văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính
- 2004), Sđd, tr.246.
[8]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[9]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[10]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.552.
[11]
Ất Dậu, [Long Phù] năm thứ 5 [1105].
Thái úy Lý Thường Kiệt chết… Vì có công, được phong làm Phụ quốc thái phó, dao
thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ,
phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được
phong làm Thái úy, rồi chết. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) -
GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và
chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.302.
[12]
Giáp Dần, [Thái Ninh] năm thứ 3 [1074].
Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc
năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác
phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.294.
[13]
Ất Mùi, [Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ 2 [1175].
Mùa xuân, tháng giêng, sách lập Long Trát làm Hoàng Thái tử, ở Đông cung. Phong
Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự,
tước vương, giúp đỡ Đông cung. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) -
GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và
chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004), Sđd, tr.346.
[14]
Cho Đỗ An Di (em trai hoàng thái hậu) làm Thái sư đồng bình chương sự. Dẫn theo
Bản in Nội các quan bản: Mộc bản
khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả, văn bản,
tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính - 2004),
Sđd, tr.347.
[15]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.529.
[16]
Ở đời Lý, chức quan coi việc dân gọi là khu mật, có tả [sứ], hữu sứ. Dẫn theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử
học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.555.
[17]
Kỷ Dậu, [Cảnh Thụy] năm thứ 2 [1009]… Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc
Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó,… Dẫn theo Bản in Nội
các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu
về tác giả,
văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính
- 2004), Sđd, tr.246.
[18]
Mậu Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 19 [1028]…
Lấy Lương Nhậm Văn làm Thái sư. Ngô Thượng Đinh làm Thái phó, Đào Xử Trung làm
Thái bảo, Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Lý Triệt làm Thiếu sư, Xung Tân làm Hữu khu
mật, Lý Mật làm Tả tham tri chính sự,… Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc
năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả,
văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính
- 2004), Sđd, tr.263.
[19]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.555.
[20]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.528.
[21]
Mậu Tuất, [Hội Tường Đại Khánh] năm thứ 9 [1118]…
Tả thị lang bộ Hộ là Lý Tú Quyên chết. Dẫn theo Bản in Nội các quan bản: Mộc bản khắc
năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu về tác giả,
văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính
- 2004), Sđd, tr.306.
[22]
Giáp Thìn, [Thiên Phù Duệ Vũ] năm thứ 5 [1124]…
Lại cho Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm thị lang bộ Lễ. Dẫn theo Bản in Nội
các quan bản: Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - GS.Phan Huy Lê (khảo cứu
về tác giả,
văn bản, tác phẩm) - Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích), GS. Hà Văn Tấn (hiệu đính
- 2004), Sđd, tr.310.
[23]
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Sử học, Phan Huy Chú, Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải (2007), Sđd, tr.556.
Nhận xét
Đăng nhận xét