CHIA CẮT VÀ CÔ LẬP SỰ KIỆN LỊCH SỬ LÀ MỘT THỦ ĐOẠN CHIẾN TRANH TÂM LÝ THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG THÙ ĐỊCH

Ảnh: Cột mốc số 836 (2) phía Việt Nam (mốc chẵn) ở khu vực Thác Bản Giốc.

1- Mối quan hệ Lịch sử - Logic và tính toàn diện của phương pháp nhận thức lịch sử

Đây là hai phạm trù triết học để chỉ mối quan hệ giữa quá trình lịch sử hiện thực cũng như lịch sử nhận thức hiện thực đó với quá trình nhận thức theo logic. Giữa hai phạm trù này có quan hệ biện chứng, tương tác và chi phối lẫn nhau trong sự độc lập tương đối giữa chúng.

Lịch sử bao gồm những sự kiện, nhân vật (cá nhân hoặc cộng đồng), diễn biến theo trục thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tuân theo quy luật nhân - quả. Bên cạnh đó, “lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp theo của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng nhất quán về lý luận” (Karl Marx). Do đó, “phương pháp logic thực chất vẫn chính là phương pháp lịch sử những đã thoát khỏi hình thái lịch sử và những sự ngẫu nhiên gây trở ngại đến quá trình lịch sử” (Friedrich Engels).
Lịch sử trong tính hiện thực của nó thường diễn biến không theo một con đường thẳng mà có những đoạn quanh co khúc khuỷu, khi tiệm tiến từng bước, lúc đột biến tăng tốc với tất cả những tính đa dạng, phong phú và cả những ngẫu nhiên. Nhưng dù là lịch sử sự vật, hiện tượng cũng như lịch sử nhận thức sự vật, hiện tượng ấy bao giờ cũng có tính tất yếu và tuân thủ những quy luật nội tại làm nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Do đó, để bổ trợ cho phạm trù lịch sử thì logic là sản phẩm đã được trừu tượng hóa từ lịch sử hiện thực, là sự phản ánh lịch sử hiện thực ấy vào ý thức của con người. Nói cách khác, phương pháp logic lịch sử loại bỏ những yếu tố có tính chất ngẫu nhiên, cá biệt; chỉ giữ lại những tính chất căn bản, phổ biến và tất yếu của nó.

Phương pháp logic có ưu thế của nó là trình bày khách thể nghiên cứu trong tính tất yếu của nó, khám phá ra bản chất của khách thể và những quy luật nội tại chi phối sự phát triển của khách thể; đồng thời, phản ánh lịch sử sự vật ở những nét khái quát nhất, chủ yếu nhất. Tuy nhiên, nền tảng dữ liệu của phương pháp logic vẫn là lịch sử hiện thực nên phương pháp logic không thể tách rời phương pháp lịch sử và chỉ là sự phát triển tư duy về lịch sử trong quá trình khám phá lịch sử hiện thực khách quan.

Từ những luận cứ trên đây, có thể thấy không có một sự kiện lịch sử nào, không có một nhân vật lịch sử nào có thể tồn tại hoàn toàn độc lập. Trước hết là sự chi phối của quy luật nhân - quả, sau đó là sự chi phối của mối liên hệ phổ biến giữa các nhân vật lịch sử, giữa các sự kiện lịch sử đồng đại hoặc lịch đại hoặc cả hai. Xét về sự đánh giá các sự kiện lịch sử cũng phải dựa trên quy luật nhân quả, quy luật liên hệ phổ biến cũng như mối quan hệ biện chứng giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic.

Mỗi một sự kiện lịch sử xã hội không chỉ bị chi phối bới những nhân vật lịch sử đã tham gia vào sự kiện đó mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các sự kiện lịch sử khác diễn ra trước đó, sau đó hoặc đồng thời mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố tự nhiên, xã hội mà người ta vẫn gọi là bối cảnh lịch sử.

2- Phê phán phương pháp phản khoa học và chủ nghĩa cực đoan trong nghiên cứu lịch sử.

Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx-Lenin cho rằng quần chúng mới là lực lượng làm nên lịch sử. Và đó là lịch sử của chính họ. Còn các nhà chính trị bằng ý chí của mình, tùy theo lập trường chính trị của mình can thiệp vào quá trình làm nên lịch sử ấy theo một trong hai hướng: Hoặc là thúc đẩy sự kiện lịch sử phát triển theo hướng lành mạnh, xây dựng, tiến bộ và tích cực để thay đổi đời sống xã hội theo hướng phát triển tốt đẹp hơn. Hoặc là kìm hãm sự phát triển của lịch sử hay hướng nó theo con đường phá hoại, tiêu cực nhằm hiện thực hóa lợi ích cục bộ, cá nhân của họ.
Để làm rõ điều này, rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử phong kiến cũng như tư sản đã mắc những sai lầm về phương pháp. Trước hết là sự lạm dụng phương pháp logic mà không dựa trên nền tảng của lịch sử hiện thực đã diễn ra. Đây là chủ nghĩa duy tâm trong nghiên cứu lịch sử. Từ phương pháp sai lầm này, họ tùy tiện gán ghép cho một sự kiện lịch sử nào đó, một nhân vật lịch sử nào đó một vai trò vượt quá chính bản thân lịch sử, đưa đến những nhận thức, đánh giá, kết luận sai lầm về lịch sử. Với động thái này, nhận thức lịch sử bị làm cho méo mó, bị xuyên tạc, thậm chí bị đảo ngược.

Ở một thái cực khác, những người mắc sai lầm phản khoa học khi nghiên cứu lịch sử lại bỏ qua phương pháp logic lịch sử. Họ đã trình bày lịch sử như một chuỗi các sự kiện ngẫu nhiên, rời rạc. Họ bỏ qua mối liên hệ phổ biến giữa các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử, bỏ qua mối liên hệ giữa sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử với bối cảnh lịch sử xã hội và điều kiện tự nhiên tại thời điểm diễn ra sự kiện lịch sử ấy cũng như đời sống xã hội mà nhân vật lịch sử đang sống. Đây chính là chủ nghĩa duy vật tầm thường trong nghiên cứu lịch sử.

Bên cạnh đó, không ít nhà nghiên cứu lịch sử mắc sai lầm khi xử lý mối quan hệ giữa quần chúng và người lãnh đạo trong các sự kiện lịch sử. Một số người cho rằng chính những nhà lãnh đạo là những người làm nên lịch sử; rằng họ mới là số “một”, còn quân chúng chỉ là những con số “không” đứng sau con số “một” ấy. Đó là chủ nghĩa anh hùng cá nhân trong nghiên cứu lịch sử. Ngược lại, có những người lại cho rằng quần chúng có thể làm nên lịch sử mà không cần người lãnh đạo định hướng, dẫn dắt. Đó là chủ nghĩa vô chính phủ trong nghiên cứu lịch sử. Đó là hai dạng thức của chủ nghĩa cực đoan khi nhận thức, nghiên cứu và đánh giá lịch sử.

Chủ nghĩa hư vô trong nhận thức lịch sử cũng là một sai lầm. Những người theo trường phái này cho rằng lịch sử vốn là không thể thay đổi nên không cần có nhận thức về lịch sử, rằng mỗi người đều có thể có nhận thức của riêng mình, bất kể nhận thức đó là khách quan hay chủ quan, bất kể nhận thức ấy có tiếp cận được hiện thực lịch sử ở mức độ nào. Trong thời buổi chủ nghĩa tự do vô chính phủ, chủ nghĩa dân chủ dân túy đã nở rộ hiện nay thì đây cũng là một khuynh hướng khá phổ biến.

Và cuối cùng, không ít nhà nghiên cứu lịch sử đã gán ghép những tiêu chí chính trị xã hội của một mô hình xã hội ra đời sau cho những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử tồn tại trước đó. Hơn nữa, họ còn tùy tiện gán ghép quy luật nội tại của sự phát triển lịch sử của một dân tộc này cho sự phát triển lịch sử của một dân tộc khác, bất chấp tính khách quan và sự độc lập tương đối trong lịch sử phát triển của mỗi dân tộc.

Những biểu hiện phản khoa học và cực đoan nói trên đã từng có và đang có khá nhiều trong việc nghiên cứu lịch sử trong nước cũng như trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, những sai lầm đó vẫn lặp đi lặp lại. Một số không nhỏ những sai lầm ấy lại được bộ máy truyền thông của những thế lực phản động cổ xúy. Những sai lầm đó không phải là ngẫu nhiên. Đó là một sự cố ý có chủ đích nhằm làm sai lệch nhận thức lịch sử để đưa lại lợi ích chính trị cho những tập đoàn phản động đi ngược lại tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc nói riêng và của nhân loại nói chung.

3- Chia cắt, cô lập sự kiện lịch sử là thủ đoạn chiến tranh tâm lý thâm độc của các thế lực phản động thù địch.

Tất cả những sai lầm phản khoa học và cực đoan trong nhận thức lịch sử đều được các thế lực phản đông, thù địch triệt để lợi dụng để nhằm chống lại Đảng, Nhà nước và đại đa số nhân dân Việt Nam, chống lại chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam, đi ngược lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, gây phương hại đến sự ổn định chính trị xã hội, đến an ninh quốc gia và trận tự an toàn xã hội Việt Nam, ngăn cản sự phát triển tiến bộ của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số trường hợp điển hình sau đây cho thấy rõ điều đó.

a- Trong Cách mạng Tháng Tám, những người Cộng sản Việt Nam đã “gặp may” ???

Những kẻ núp bóng ngoại bang như những thành phần cơ hội chính trị trong chính phủ Trần Trọng Kim đều có quan điểm này. Cái gọi là chính phủ này được gọi là thành lập trong thời điểm mà phát xít Nhật đã cơ bản thất bại trên mặt trận Thái Bình Dương. Và những thế lực cơ hội chính trị ở Việt Nam lúc bấy giờ đã phải tháo chạy khỏi Việt Nam nhưng bây giờ thì nhờ CIA bơm thổi, chúng lại bắt đầu quá trình trở cờ nhằm phục hồi thanh thế mà trước đó, chúng cùng với ngụy quyền Sài Gòn đã không thế “giành được trái tim của quần chúng”.

Xét theo sự mô tả lịch sử lúc bấy giờ trong “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng Trường Ba Đình ngày 2-9-1945 rằng “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” thì đó là sự phản ánh đúng thời thế lịch sử khi đó.
Nhưng lực lượng nào đã làm nên cuộc cách mạng đó. Những kẻ chuyên “bám gót thực dân”, “theo voi hít bã mía” thực dân đế quốc luôn tâm niệm trong đấu chúng giá như không có chủ nghĩa phát xít Hitler và nếu không có Liên Xô thì bây giờ chúng đã có “biệt thự” trên… “mặt trăng”. Đây có lẽ là ước mơ cao nhất hiện tại nhưng chưa chắc đã là ước mơ cao nhất của những kẻ đó trong tương lai.
Bọn sử gia cơ hội chính trị theo gót các thế lực phản động thù địch cố gắng che lấp và xuyên tạc quá trình tìm đến chủ nghĩa Marx - Lenin của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời bơm thổi cho các thế lực cơ hội chính trị được các thế lực chính trị nước ngoài bợ đỡ như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt .v.v… .Tuy nhiên, như sự thật lịch sự đã khẳng định. Nhân dân Việt Nam đã chọn con đường theo Đảng, theo Việt Minh. Tại sao vậy ?

Tất cả là ở chỗ chính Đảng Cộng sản Việt Nam thánh lập từ năm 1930 đã luôn đứng về phía những người cần lao, cùng khổ, đã luôn đấu tranh để bào vệ cho những người lao động. Trong suốt 15 năm trước Cách mạng tháng Tám, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đấu tranh giành độc lập thật sự cho Tổ Quốc mà không bị bất cứ một thế lực ngoại bang nào chi phối. Điều đó đã được chứng minh từ năm 1945.
Vì thế, những chiêu bài tuyên truyền chính trị thông qua cái gọi là những nghiên cứu lịch sử hòng phục hồi những “thây ma chính trị” như Bảo Đại, Trần Văn Chương (bố vợ Ngô Đình Nhu), Nguyễn Văn Xuân, (sĩ quan người Việt mang quân hàm thiếu tướng quân đội thực dân Pháp ngày 8-10-1947), Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát (anh cả cố giáo sư Phan Huy Lê).

Trên thực tế thì Đảng Cộng sản Việt Nam (có lúc mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã tự mình tiến hành cuộc đấu tranh trường kỳ suốt 15 năm ròng kể từ khi thành lập mà không hề dựa vào bất kỳ một thế lực ngoại bang nào. Trong khí đó thì Quốc dân Đảng Việt Nam vì bảo vệ nội bộ kém nên bị địch chui vào lũng đoạn và kết cục là bị tiêu diệt cả ban lãnh đạo. Những phần tử cơ hôi chính trị của Việt Nam Quốc dân Đảng đã tháo chạy sang Trung Quốc và bị nước ngoài sử dụng như tay sai của mình. Theo gót Việt Nam Quốc dân Đảng, những phần tử cô hội chính trị tự lập ra các đảng phái này nọ cũng nương nhờ vào các thế lực ngoại bang mà tồn tại. Điều đó không hề có ở Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên giành độc lập, chủ quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp. Trong cuộc cách mạng mang tính lịch sử toàn cầu này không có dấu hiệu của bất cứ một thứ Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt nào trong các sự kiện đấu tranh chính trị cũng như đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Nhưng bọn cơ hội chính trị "đục nước béo cò" thì lúc nào cũng có, và việc chúng có mặt đòi chia phần thành quả của Cách mạng Tháng Tám cũng không phải là điều lạ.

Cách mạng Tháng Tám là cả một sự tính toán chiến lược đối với một dân tộc tuy có bề dày lịch sử chống ngoại xâm nhưng thực lực thì còn rất non yếu. Trong điều kiện hoàn cảnh ấy, chỉ có thể dựa vào thời cơ, tranh thủ thời có trong điều kiện “Pháp chạy. Nhật hàng”. Những phần tử phản đông mang danh Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt đừng nên hối tiếc làm gì bởi các ông là những kẻ hèn nhát, ngồi bàn chuyện chính sự salon thì giỏi nhưng cấm dám ló mặt ra trận tiền. Và giờ đây, hậu duệ của các ông cũng có một đám các con cháu “chém gió thành bão” trên Fecabook đấy. Hậu duệ của các vị quả là quá "vẻ vang" vì đã dùng “hỏa lực mồm” để có thành tích “đánh giặc mồm”.

b- Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 với Trận chiến 25 ngày đêm tại Huế cũng như Sự khởi đầu của Hội nghị Paris đã đi vào lịch sử và trở thành bài học về kết hợp giữa các biện pháp đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại giao (đó là chưa kể đến binh vận cũng khá hữu hiệu).

Thế những có những kẻ dựa vào sự bịa đặt của các nhân viên CIA đội lốt nhà báo này, phóng viên kia để dựng lên câu chuyện bịa đặt vô liêm sỉ về thảm sát ở Huế năm 1968. Nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Noam Chomsky bằng những cứ liệu thuyết phục đã vạch trần sự giả dối của chính quyền ngụy Sài Gòn khi chúng thưa kiện với cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc khi đó. Các thành viên của tổ chức Tòa án quốc tế Bertrand Rusell (do nhà hoạt động nhân quyền Bertrand Arthur William Russell, Bá tước Russell III sáng lập) đã phủ nhận những chứng cứ giả mạo mà chính quyền ngụy Sài Gòn đưa ra. Đồng thời, họ đã chất vấn ngược lại người Mỹ về việc không quân Mỹ ném bom phá hủy các đê điều chống lũ lụt ở Việt Nam mà các đê điều đó chắc chắn không bao giờ là các công trình quân sự.

Sự kiên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm cùng với Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh nằm trong Chiến lược Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã buộc Nhà Trắng và Lầu năm góc phải nhận ra rằng Mỹ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh này trước một dân tộc thà hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập chủ quyền của mình. Và một kết quả tất yếu của Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đám phán ở Hội nghị Paris để tìm kiếm con đường rút khỏi cuộc Chiến tranh Việt Nam trong danh dự.


Sau cuộc chiến, đoàn chuyên gia của Hội đồng hòa bình Liên Hợp Quốc do giáo sư Noam Chomsky dẫn đầu đã xác nhận rằng chính quyền ngụy Sài Gòn đã chôn chung các chiến sĩ Quân giải phóng miền Nam bị hy sinh trong cuộc chiến với những người dân thiệt mạng vì “tên bay đạn lạc” và bịa đặt ra câu chuyện thảm sát của cộng sản ở thành phố Huế năm 1968. Cho đến nay, các thế lực phản động vẫn sử dụng chiêu bài này để chống phá Việt Nam cho dù sự kiện đã cách đây tới 50 năm và được thế giới kết luận cách đây hơn 40 năm.

Thế nhưng điều đáng phẫn nộ là một số nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện nay lại “lao theo” những sự bịa đặt này hòng “đánh bóng” tên tuổi mình bằng những cái gọi là “sự phát hiện chấn động”. Than ôi ! Đến như những nhà sử học tiền bối như Ngô Sỹ Liên, Phan Phu Tiên còn chỉ mong chép sử sao cho đúng, cho chuẩn thôi mà các vị sử học đời nay còn đòi làm những chuyện “phát kiến chấn động” thì đó quả là một sự châm biếm không thể lớn hơn đối với chính các vị ấy.

c- Chiến dịch Tổng tấn công mùa Xuân 1972 với Chiến dịch Trị Thiên Huế, Trận Thành cổ Quảng Trị và sự kết thúc thắng lợi với Hiệp định Paris.

Cũng với phương cách tương tự, một nhúm người tự phong mình là “sử gia” của chế độ ngụy Sài Gòn sau khi di tản sang Mỹ đã viết về trận chiến ở Thành cổ Quảng Trị với những sự cắt xén, xuyên tạc đến trơ tráo. Chúng không hề nhắc đến chuyện cả một trung đoàn 56 (thuộc Sư đoàn 3) quân ngụy Sài Gòn do các trung tá Phạm Văn Đính và Vĩnh Phong chỉ huy đã đầu hàng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Và đến ngày 2-5-1972 thì Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, đẩy quân ngụy Sài Gòn về phía Nam sông Mỹ Chánh.
Trong những ngày mùa hè bỏng cháy năm 1972, chỉ có không quân và hải quân Mỹ mới có thể cứu được Quân đoàn 1 (Quân khu I) ngụy Sài Gòn tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn. Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia tại Mặt trân B5 (Trị Thiên Huế) đã tổn thất khá nhiều về người, vũ khí, trang bị mà phần lớn những tổn thất đó là do không quân Mỹ (bao gồm cả máy bay ném bom chiến lược B-52) và các chiến hạm của Mỹ đậu gần bờ biển pháo kích vào.

Ngày 28-6-1972, sau khi được tăng viện Sư đoàn Thủy quân lục chiến và Sư đoàn Dù từ Quân đoàn 3 ra, quân ngụy Sài Gòn bắt đầu cuộc phản công mang mật danh “Lam Sơn 72” do tên tướng ba sao Ngô Quang Trưởng chỉ huy. Mặc dù nắm trong tay binh lực của các sư đoàn 1, 3 (thiếu), Dù, Thủy quân lục chiến và 5 liên đoàn biệt động quân (mỗi liên đoàn tương đương một lữ đoàn) để đối phó với 3 sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổn thất trong 3 giai đoạn “Bão táp” của Chiến dịch Trị Thiên Huế nhưng phải đến ngày 16-9-1972, quân ngụy Sài Gòn mới có thể chiếm lại được Thành cổ Quảng Trị và chịu dừng bước ở bờ Nam các con sông Thạch Hãn và Vĩnh Định. Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vững thị xã Đông Hà và 3 huyện phía Bắc tỉnh Quảng Trị, (không kể huyện Vĩnh Linh nằm phía Bắc sông Bến Hải).
Cũng trong mùa Xuân năm 1972, các đòn tấn công chiến lược tiếp theo của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Mặt trận B2 (Đông Nam Bộ), Mặt trận B3 (Bắc Tây Nguyên) và các mặt trận phối hợp tại Liên khu V và Khu 8 đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân đội ngụy Sài Gòn. Tại Đông Nam Bộ, mặc dù không chiếm được thị xã Bình Long (An Lộc) nhưng ba sư đoàn 5, 7, 9 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Bắc Tây Ninh qua Bắc Bình Long đến Bắc Phước Long. Tại Bắc Tây Nguyên, dù chưa chiếm được thị xã Kon Tum nhưng các sư đoàn 2, 320A và 4 trung đoàn bộ binh của mặt trận B3 với quân số ít hơn đã đánh bại 3 sư đoàn quân ngụy Sài Gòn có hơn 10.000 phi vụ B-52 yểm hộ; giải phóng địa bàn các huyện Đắc Tô, Tân Cảnh, sau này trở thành bàn đạp quan trọng cho Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975.

Tính chung trong toàn bộ chiến cục tấn công chiến lược năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 213.000 tên địch, trong đó có 4.408 lính Mỹ, bắt tù binh 13.200 lính ngụy Sài Gòn.
Chuỗi chiến dịch tấn công chiến lược năm 1972 đã đạt kết quả to lớn chưa từng có. Đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đàng hoàng ra mắt tại vùng giải phóng Đông Hà. Đế quốc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris 1973, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt mọi hành động can thiệp quân sự vào Đông Dương cũng như có trách nhiệm tái thiết Việt Nam sau chiến tranh.

Nhưng chiến cục với kết quả to lớn ấy lại không hề được những kẻ “lật sử” nhắc đến. Chúng xoáy vào trận đánh tại Thành cổ Quảng Trị và tách nó ra khỏi toàn bộ Chiến cục năm 1972. Và chúng cũng làm như vậy đối với các trận đánh tại An Lộc và Kontum. Hành động có chủ đích đó một mặt nhằm “lên giây cót” cho những “con rối” tàn dư, hậu duệ của chế độ ngụy Sài Gòn đang lưu vong ở nước ngoài, mặt khác, đánh vào tâm lý đau xót do mất mát trong chiến tranh. Và cuối cùng, những kẻ “lật sử” đó tiếp tục dựa vào sự cắt xén lịch sử ấy để tung ra những luận điệu sai trái, biến cuộc Kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của quân và dân Việt Nam thành một cuộc nội chiến. Qua đó, núp dưới chiêu bài hòa hợp dân tộc để đổi trắng thay đen, lộn sòng phải trái, biến chiến tranh chính nghĩa thành chiến tranh phi nghĩa và ngược lại.

d- Cuộc chiến đấu bảo vệ Biên giới phía Bắc (1979-1991) với trận Vị Xuyên 1984.

Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ Quốc Việt Nam diễn ra từ ngày 17-2-1979 đến năm 1991 mới chấm dứt. Trong 12 năm ròng rã ấy đã diễn ra hàng nghìn trận đánh lớn nhỏ mà đỉnh điểm là mùa xuân năm 1979 và mùa hè năm 1984. Vào mùa xuân năm 1979, với binh lực thua kém đối phương nhiều lần nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh lui 600.000 quân Trung Quốc khỏi lãnh thổ Việt Nam, tiêu diệt và bắt sống 62.000 sĩ quan và binh lính Trung Quốc, phá hủy hàng nghìn xe tăng và xe bọc thép. Vào mùa hè năm 1984, tại mặt trận Vị Xuyên, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 11 tiểu đoàn, tiêu diệt 7.500 sĩ quan và binh lính Trung Quốc, ngoài ra còn có 5.500 sĩ quan và binh lính Trung Quốc bị thương. Tổn thất ấy lớn đến mức tướng Lưu Á Châu, Giám đốc Học viện quân sự cao cấp Trung Quốc đã phải thốt lên: “Lính chết la liệt nhưng không có ai chịu trách nhiệm cả !”. Trong khi đó thì tổn thất của Quân đội Nhân dân Việt Nam là hơn 2.000 người hy sinh và bị thương.

Thế nhưng những kẻ lật sử một lần nữa lại chia tách các trận đánh ở Vị Xuyên mà đặc biệt là ở các cao điểm 1509 Núi Đất (Trung Quốc gọi là Lão Sơn), 772, 233 1030 và 1200 (Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn) ra khỏi toàn bộ quá trình xung đột vũ trang trên biên giới Việt Trung từ năm 1979 đến năm 1991 để phủ nhận chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong hàng loạt các bài báo lớn nhỏ hầu như không đề cập đến việc Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc giữ vững tuyến biên giới phía Bắc của Tổ Quốc mà nhằm vào hai việc:

- Một là tô đậm tổn thất của ta để khơi dậy tâm lý thất bại, đồng thời lấy cớ đó vu cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam bắt tay với cái mà họ gọi là “giặc Tàu”.

- Hai là từ những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật để kích động tâm lý bài Trung, thoát Hán; đương nhiên đến bước sau là “cắm biển chỉ đường” cho Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ và cuối cùng là xóa bỏ chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam.

Đó là những ý đồ cực kỳ xấu xa, mang màu sắc của động cơ lưu manh chính trị, là lợi dụng sự hy sinh xương máu của các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam cho những chiêu trò cơ hội chính trị bẩn thỉu.

đ- Cuộc chiến đấu 10 năm bảo vệ chủ quyền biển đảo và Trận chiến Gạc Ma 1988.

Theo cách thức tương tự, sự kiện Gạc Ma ngày 14-3-1988 cũng bị các thế lực phản động thù địch chia cắt khỏi toàn bộ quá trình chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam để bảo vệ biên giới của Tổ Quốc với ý đồ vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam bán biển, bản đảo cho Trung Quốc, phủ nhận toàn bộ sự hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ ta trong 12 năm chiến đấu ròng rã để bảo vệ chủ quyền, độc lập và lãnh thổ quốc gia, đồng thời “rửa mặt” cho chế độ ngụy Sài Gòn tuân lệnh chủ Mỹ đã tạo ra một cuộc “hải chiến cuội” ở Hoàng Sa nhưng thực chất là Hoàng Sa đã bị Mỹ “chuyển giao” bất hợp pháp cho Trung Quốc sau thỏa thuận ngầm ở Thượng Hải tháng 2-1972.
Sau 9 năm đàm phán ròng rã, (1991-1999), năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền. Năm 2000, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Nguy cơ chiến tranh hay xung đột vũ trang trên biên giới Việt Trung và Vịnh bắc Bộ hầu như đã bị loại trừ. Cùng với đó, những cái cớ để chống phá Việt Nam dựa vào xung đột biên giới cũng bị gỡ bỏ. Bọn phản động tức tối liền xoáy vào những vấn đề còn đàm phán tiếp (và thực ra thì hiện nay đã đàm phán xong, phân định xong) như Thác Bản Giốc, Cửa sông Bắc Luân, khu vực Ma Lỳ Sán (Hà Giang) để tiếp tục nhai lại những luận điệu Việt Nam để mất đất cho Trung Quốc. Việc tiến hành cắm mốc phân định biên giới Việt - Trung trên thực địa (có gắn thiết bị định vị vệ tinh GMS) đã hoàn thành đầy đủ vào năm 2013. Thực tế đã hoàn toàn chống lại nhưng luận điệu xuyên tạc đểu giả ấy.

4- Câu chuyện bên Thác Bản Giốc.

Mùa thu năm 2017, tác giả của những dòng này có dịp đặt chân đến Thác Bản Giốc sau 30 năm.Và tại đây diễn ra một cuộc trao đổi lý thú.

Một bác già từ Nam Bộ cất công ra thăm thác Bản Giốc để xem cái thác ấy thuộc về ai. Hai bên bắt chuyện và làm quen. Rồi bác ấy hỏi tôi:

- Tôi thấy ở đây có hai cái thác. Vậy thác nào là Thác Bản Giốc ?
Tôi trả lời:
- Thưa bác ! Thác Bản Giốc gồm 2 thành phần. Cái thác một tầng kia là thác phụ. Còn cái thác ba tầng giữa sông kia là thác chính.
Bác già Nam Bộ liền buông sõng một câu:
- Thế thì cái Thác Bản Giốc to đẹp nhất kia đã đã bị bọn Trung Quốc chiếm hết mẹ nó rồi còn đâu.
Tôi hỏi lại:
- Sao bác lại nói vậy ?
Bác già Nam Bộ trả lời:
- Thế ông có nhìn thấy cái cột mốc to lù lù dưới gốc cây cổ thụ kia không ? Cột mốc biên giới trồng ở đó chứng tỏ đó là biên giới. Thế thì Thác Bản Giốc chính thuộc về Trung Quốc rồi còn gì.

Tôi buộc phải giải thích:
- Đó đúng là cột mốc biên giới. Nhưng theo Hiệp ước phân định biên giới Việt - Trung trên bộ, để xác định chính xác đường biên giới trên sông trong trường hợp dòng chảy thay đổi, hai bên thống nhất cắm hai mốc. Mốc lẻ và mốc chẵn, mỗi bên có một mốc. Điểm giữa của đường thẳng nối hai mốc đó là điểm xác định đường biên giới đi qua trên sông. Như vậy, Thác Bản Giốc chính được chia đôi. Ta có 2/3, Trung Quốc có 1/3. Còn thác phụ nằm hoàn toàn trên đất ta.
Bác già Nam Bộ bảo
- Tôi chẳng nhìn thấy cái mốc của thằng Trung Quốc đâu cả.
Tôi chỉ tay sang phía bên kia sóng và nói:
- Nó ở ngay bên kia sông, trên cái đài cao có hàng rào xích đông bằng Inox vây quanh, nơi mấy thanh niên Trung Quốc đang chụp ảnh đấy.
Bác già vẫn không chịu. Hai bên bắt đầu to tiếng.

Đúng lúc đó, Tổ tuần tra kiểm soát biên giới của Việt Nam do một đồng chí Thiếu úy Biên phòng chỉ huy lại gần và hỏi han xem có chuyện gì. Sau khi biết đầu đuôi câu chuyện, đồng chí Thiếu úy dẫn bác già Nam Bộ đến xem một tấm bảng chỉ dẫn đặt trên bờ sông. Một chiến sĩ trong tổ tuần tra rút trong xắc cốt ra hai cuốn sách mỏng về Thác Bản Giốc và nói:
- Cháu tặng hai bác hai cuốn sách này. Trong đó nói rõ về việc phân định biên giới qua Thác Bản Giốc. Các bác cứ về đọc khắc rõ. Chúc hai bác mạnh khỏe và có một chuyến đi thú vị.
Sau khi tổ tuần tra biên giới đi khỏi. Bác già bảo tôi:
- Xin lỗi anh nhé. Thú thật tôi toàn xem trên mạng thấy đầy rãy những bài nói rằng Trung Quốc đã chiếm toàn bộ Thác Bản Giốc của ta. Cả mấy ông ở tổ cán bộ hưu trí của tôi cũng bảo vậy. Hôm nay được anh và các chú Biên phòng giải thích cặn kẽ. Tôi mới rõ. Đúng là chúng nó toàn nói láo. Tôi sẽ đem cuốn sách này về để đọc trong buổi sinh hoạt tổ cán bộ hưu tháng này.

TS. Nguyễn Minh Tâm
Người sưu tầm: Nguyễn Cường Thịnh

Nhận xét