BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)

Dấu mốc xác định thời Bắc thuộc đầu tiên chưa thống nhất giữa các sử gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu.
Quan điểm thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt năm 111 TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc.
Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt Âu Lạc của An Dương Vương.
Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị diệt năm 207 TCN.
Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt phía Tây nước Âu Lạc "sau khi Lã hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN.”
Ở đây, tôi lấy mốc năm 111 TCN làm sự kiện đánh dấu của Bắc thuộc nói chung và Bắc thuộc lần thứ nhất nói riêng.
Năm 111 TCNnhà Hán diệt nhà Triệu, chiếm được Nam Việt và chia làm 6 quận là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, đồng thời lập thêm 3 quận mới là Chu Nhai, Đạm Nhĩ, Nhật Nam. Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị bộ Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn.
“Thời Bắc thuộc lần 1, trong vòng hơn 200 năm không ghi nhận một cuộc nổi dậy chống đối đáng kể nào của người Việt. Chỉ có những việc chống đối quy mô tương đối nhỏ, giết quan lại nhà Hán, dù trong nhiều năm đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ Kinh Sở (Hoa Nam) xuống trấn áp nhưng không đủ mạnh để đuổi người Hán.”
Năm 34, Tô Định được cử sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tên này ra sức đàn áp và vơ vét của cải của dân ta, khiến dân ta càng thêm khổ cực. Năm 39Tô Định giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nợ nước thù nhà, Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa (năm 40) và đã giành được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.
“Năm 40, do sự tàn bạo của Thái thú Tô Định (trấn trị từ năm 34), hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã nổi dậy chống sự cai trị của nhà Hán. Tô Định bỏ chạy về Trung Quốc, Trưng Trắc xưng vương (Trưng Vương), xác lập quyền tự chủ của người Việt. Thời Bắc thuộc lần 1 chấm dứt.”

A - Kỷ thuộc nhà Tây Hán (111 TCN - 220 SCN)
1. Tổ chức bộ máy cai trị
Năm 111 TCN, nhà Hán điều hơn 10 vạn quân xuống chinh phục Nam Việt. Sau một thời gian chống cự, vua tôi nhà Triệu kẻ bị bắt, kẻ bị giết. Quân Hán do Lộ Bác Đức, Dương Bộc chỉ huy bắt được Tể tướng Nam Việt là Lữ Gia đưa về Trường An. Đất Âu Lạc từ đó bị nhà Hán đô hộ.
Hán Vũ Đế quyết định sử dụng quân sự và mở cuộc tấn công quy mô vào năm 111 TCN. Nhà Triệu đã thất bại sau khi tướng Hán là Lộ Bác Đức hạ được kinh thành Phiên Ngung của Nam Việt nhưng chưa tiến vào lãnh thổ Giao Chỉ và Cửu Chân. Quân trưởng Tây Vu là Tây Vu Vương nổi dậy chống nhà Hán với ý đồ khôi phục độc lập cho Âu Lạc nhưng vì lực lượng yếu, Tây Vu Vương bị Tả tướng Giao Chỉ là Hoàng Đồng giết chết. Nước Nam Việt, trong đó bao gồm lãnh thổ miền Bắc Việt Nam bây giờ, từ đó thuộc quyền cai quản của nhà Hán.”


Hình 1. Chân dung vua Hán Vũ Đế (Lưu Triệt)

Nhà Hán chia vùng đất mới chiếm ra làm 9 quận là Đạm Nhĩ, Chu Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (đều thuộc Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc ngày nay), Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam), Cửu Chân (vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh ), Nhật Nam (vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận ở lục địa, trị sở đặt ở quận Giao Chỉ là quận lớn nhất và quan trọng nhất.
Đứng đầu bộ Giao Chỉ là chức Thứ sử, đóng trị sở tại Mê Linh (nay là làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Đứng đầu các quận có một viên Thái thú chuyên trông coi việc hành chính và thu phú cống trong quận. Bên cạnh Thái thú có viên Đô uý phụ trách quân sự, chỉ huy quân lính, đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân địa phương. Bên dưới quận là huyện. Nhìn chung ở huyện, nhà Tây Hán vẫn duy trì phương thức cai trị của nhà Triệu “dùng người Việt trị người Việt”, các Lạc tướng vẫn được cai trị dân chúng theo truyền thống cũ với danh hiệu Huyện lệnh. Theo chế độ của nhà Hán, Huyện lệnh được phát ấn đồng, có dây tua xanh.
Phương thức bóc lột cơ bản lúc này vẫn là phương thức cống nạp. Tuy nhà Hán đã áp đặt được một bộ máy đô hộ ở các cấp châu, quận, song chính giới thống trị Hán tộc cũng phải thú nhận là chúng chỉ có thể “dùng tục cũ mà cai trị", không nắm được các huyện vì ở huyện vẫn theo chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt.
Nhà Hán xác lập bộ máy cai trị chặt chẽ hơn so với nhà Triệu, thiết lập đơn vị cai trị cấp châu và quận. Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt vẫn được duy trì, nhà Hán "dùng tục cũ để cai trị...”

1. Nam Hải
 
(Quảng Đông).
2. Thương Ngô
 
(Quảng Tây).
3. Uất Lâm
 
(Quảng Tây).
4. Hợp Phố
 
(Quảng Đông)
5. Giao Chỉ
 
(Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung Việt).
6. Cửu Chân
 
7. Nhật Nam
 
8. Châu Nhai
 
(đảo Hải Nam).
9. Đạm Nhĩ
 
(đảo Hải Nam).

Mỗi quận có quan Thái thú  coi việc cai trị trong quận và lại có quan Thứ sử  để giám sát các quận. Ở trong quận Giao Chỉ thì có những Lạc tướng hay Lạc hầu vẫn được thế lập giữ quyền cai trị các bộ lạc tựa hồ như các quan lang ở mạn thượng du đất Bắc Việt bây giờ …
Từ đời vua Vũ Đế cho đến hết đời nhà Tây Hán không thấy sử nói gì đến đất Giao Chỉ nữa. Mãi đến năm Kỷ Sửu (năm 29 Tây lịch) là năm Kiến Vũ thứ 5 đời vua Quang Vũ ( nhà Đông-Hán ( thì mới thấy chép rằng Thứ sử Giao Chỉ là Đặng Nhượng ( ) sai sứ về cống nhà Hán. Bởi vì khi Vương Mãng ( cướp ngôi nhà Hán, bọn Đặng Nhượng ( ), Tích Quang ( và Đỗ Mục ( ở Giao Chỉ giữ châu quận, không chịu phục Vương Mãng. Đến khi vua Quang Vũ trung hưng lên, bọn Đặng Nhượng mới sai sứ về triều cống.”[1].
Bộ Giao Chỉ gồm có 9 quận: Nam HảiUất LâmThương NgôHợp Phố, Đạm Nhĩ, Châu Nhai, Giao ChỉCửu Chân và Nhật Nam. Trong 7 quận này, Giao Chỉ và Cửu Chân là nước Âu Lạc cũ; các quận Nam HảiUất LâmThương NgôHợp Phố vốn là đất do nhà Tần chiếm được của người Bách Việt ở Lĩnh Nam; quận Nhật Nam do nhà Hán mở rộng xuống phía Nam quận Cửu Chân. Ba quận thuộc lãnh thổ nước ta thời Hán là Giao ChỉCửu Chân và Nhật Nam.
Quận Nam Hải gồm có 6 huyện, quận Uất Lâm gồm có 12 huyện, quận Thương Ngô gồm có 10 huyện, quận Hợp Phố gồm có 5 huyện, quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện, quận Cửu Chân gồm có 5 huyện và quận Nhật Nam gồm có 5 huyện.”
  

Hình 2. Vị trí các quận trực thuộc bộ Giao Chỉ trên đất Lĩnh Nam

“Tân Mùi, [110 TCN], (Hán Nguyên Phong năm thứ 1). Nước Việt ta đã thuộc về nhà Hán. Nhà Hán cho Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, trừ hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, còn 7 quận thuộc về Giao Châu, Đái làm châu Thái thú. Thời Tây Hán, trị sở của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời Đông Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lăng. Đến khi Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Mãng, châu mục Giao Châu là Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cõi để tự giữ. Tướng nhà Hán là Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, gửi thư cho Nhượng bày tỏ uy đức của nhà Hán. Thế rồi [Nhượng] bảo Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú các quận là bọn Đỗ Mục sai sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong cho những người ấy tước hầu. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5 [29]...Kỷ Hợi, [39], (Hán Quang Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15). Thái thú Giao Chỉ là Tô Định chính sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ Vương dấy binh đánh. Trở lên là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm [110 TCN - 39].”[2]
Từ việc tổ chức bộ máy cai trị, ta thấy cách cai trị của nhà Tây Hán rất thâm độc, vừa bảo đảm được nguồn bóc lột, vừa ít động chạm đến quyền lợi của tầng lớp quý tộc bản địa.
2. Kinh tế
Chính quyền đô hộ thi hành chính sách bóc lột, cống nạp nặng nề. Chúng còn cướp ruộng đất, cưỡng bức nhân dân ta cày cấy, thực hiện chính sách đồn điền, nắm độc quyền về muối và sắt. Chính quyền đô hộ đưa người Hán (dân nghèo, tội nhân …) vào Âu Lạc, cho ở lẫn với người Việt; xâm chiếm, khai phá ruộng đất để lập đồn điền do chính quyền đô hộ trực tiếp quản lí, biến một bộ phận người Việt trở thành nông nô của họ.
“Nhân dân châu Giao, ngoài việc phải nộp các loại thuế, nhất là thuế muối, thuế sắt,…Hằng năm còn phải lên rừng, xuống biển tìm kiếm những sản vật quý như ngà voi, sừng tê, ngọc trai, đồi mồi,… để cống nạp cho nhà Hán.”
“Mức độ bóc lột và đồng hóa của chúng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngoài việc bắt nhân dân ta phải cống nạp nhiều của quý, vật lạ của phương Nam, nhà Hán còn bóc lột tô thuế nặng nề, chiếm đất lập trang trại, nắm độc quyền sản xuất và mua bán muối.”
Bọn quan lại đô hộ dựa vào quyền hành, ra sức bóc lột dân chúng để làm giàu.
“Chu Thặng làm Thứ sử Giao Châu tâu với vua Hán: Giao Châu ở nơi xa cách, quan lại (người Hán) tập tục tham ô, làm đủ điều gian trá, Trưởng sử tha hồ bạo ngược, bóc lột muôn dân.”
a) Nông nghiệp
Cơ sở kinh tế thời kỳ này là nông nghiệp với nông cụ đá (rìucuốc đá), gỗ (maivồ...), nhiều công cụ đồng thau (lưỡi cuốc,càyxẻng, rìu, hái...) và một số nông cụ sắt (có rìu sắt lưỡi xéo phỏng chế rìu đồng Đông Sơn)..
Lúa nước vẫn là cây trồng chủ đạo. Bên cạnh đó, có nghề trồng dâu nuôi tằm, trồng bôngđaygai để có cái mặc và có nhiều hoa quả như nhãnvảiquýtchuối....
Trong chăn nuôi, người Việt có 5 giống gia súc là trâulợnchó.
b) Thủ công nghiệp
Nền sản xuất thủ công nghiệp Giao Chỉ tiếp tục có những bước phát triển, trên cơ sở thủ công nghiệp truyền thống của Âu Lạc kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa của dân Nam Việt.
Đồ đồng Đông Sơn vẫn được sản xuất bên cạnh đồ đồng vùng Lưỡng Quảng (đỉnh, biển, hồ, gươm, gương đồng...). Các sản phẩm gốm gồm gốm cổ truyền còn có những sản phẩm chịu ảnh hưởng của phong cách Nam Việt (như gốm văn in hình học, bình 4-5 thân dính liền nhau) và Hán (đỉnh, bình, vò...).
Người Việt có nghề dệt cửi làm vải, nổi tiếng là vải cát bá (vải bông) nhỏ sợi và rất mịn.
c) Thương mại
Từ khi nhà Hán chinh phục Nam Việt, người Việt tham gia hoạt động thương mại nhiều hơn so với trước, do tác động của các thương nhân người Hán. Điểm xuất phát của các thương nhân người Hán từ phương Bắc, khi đi và về đều qua Nhật Nam mua bán thổ sản sau khi vòng qua trao đổi hàng ở các quốc gia ngoài biển.
Nhiều lái buôn người Hán đến buôn bán và trở nên giàu có. Sản vật địa phương buôn bán trao đổi bao gồm vải cát bá, đồi mồingọcvoitê giácvàng bạc, hoa quả,...
Việc buôn bán ở phương Đông thời Tây Hán đã phát triển. Do có vị trí thuận lợi và phong phú sản phẩm nhiệt đới, Giao Chỉ trở thành một trạm quan trọng về giao thông biển với các nước phía nam ngoài biển. Hán thư (Ban Cố) ghi lại tên một số quốc gia có thông thường thời kỳ đó, được xác định ở Nam Á và Đông Nam Á như Hoàng Chi, Đô Nguyên, Âp Lô Một, Sâm Ly, Phù Cam Đô Lô, Bì Tông....
“Thời kỳ từ thế kỷ thứ II TCN cho đến đầu Công nguyên vẫn là thời kỳ tồn tại của cơ cấu văn minh Đông Sơn với mô hình kinh tế- văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền ở Sơ kỳ thời đại đồ sắt Việt Nam. Nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống mãnh liệt của nó trong mấy trăm năm đầu của thời kỳ Bắc thuộc.”[3] 
3. Văn hóa, xã hội
Các triều đại phong kiến phương Bắc truyền bá Nho giáo vào nước ta, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục theo người Hán. Nhiều nho sĩ, quan lại người Hán được đưa vào đất Âu Lạc cũ để thực hiện chính sách nói trên và mở một số lớp dạy chữ Nho. Tuy nhiên, dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo chỉ có ảnh hưởng đến một số vùng trung tâm châu, quận.
“[…] Nhà Hán lại đưa người Hán sang ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và bắt dân ta phải theo phong tục của họ.”
“Nhà Hán ra sức củng cố và hoàn thiện chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ, tìm mọi cách xoá bỏ lối “dùng tục cũ mà cai trị”, áp dụng pháp luật Hán, bắt nhân dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán. Việc chúng mở ra một vài trường học cũng chỉ là để đào tạo một số thuốc viên đắc lực cho chính quyền đô hộ và tuyên truyền những tư tưởng đạo đức phong kiến Hán.”
Đến thời Bắc thuộc lần 1 là thời sơ kỳ đồ sắt Việt Nam, vẫn tồn tại cơ cấu của nền văn minh Đông Sơn với mô hình văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền. Người Việt đã chịu ảnh hưởng lối sống, văn minh - văn hóa Hán được truyền bá theo 2 cách:
-        Truyền bá một cách ôn hòa qua giao lưu kinh tế - văn hóa, qua di dân Trung Quốc.
-        Truyền bá một cách cưỡng bức thông qua đô hộ hành chính quân sự.
Sự tồn tại của văn hóa Đông Sơn được các sử gia hiện đại đánh giá là sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt trước sự đồng hóa của phương Bắc. Có sự tồn tại song song của hai nền văn hóa được các nhà nghiên cứu xác nhận:
-        Trong cư trú: kiểu Đông Sơn với nhà sàn và kiểu Hán với thành quách mô hình nhà bằng đất, mô hình giếng nước, bếp lò, chuồng trại.
-        Trong mộ táng: kiểu Đông Sơn với mộ táng hình thuyền và đồ tùy táng kiểu Đông Sơn; kiểu Hán với mộ đất, quách gỗ và hiện vật tùy táng kiểu Trung Quốc
-        Trong sinh hoạt: vừa có đồ gốm kiểu Đường Cồ, gốm Đông Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng của người Việt truyền thống bên cạnh bình, đỉnh miệng vuông, đao sắt, kiếmgương đồng, móc đai lưng.
Đầu thế kỷ 1Nhâm Diên được Hán Quang Vũ Đế cử sang làm thái thú quận Cửu Chân đã áp dụng lối sống Hán cải biến phong hóa người Việt từ năm 29. Những việc cưới xin tới trang phục, giáo dục nhất thiết phải theo lễ nghĩa Trung Quốc.
“Đến đầu Công nguyên, triều đình phương Bắc có biến loạn. Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập ra triều Tân (8- 23). Sau đó, Đông Hán thay thế triều Tân (23- 220), trong đó giai đoạn từ năm 25 đến năm 88 là thời kỳ Trung Quốc ổn định ở bên trong và có điều kiện mở rộng bành trướng ra bên ngoài.
Trước tình hình đó, một số khá đông quý tộc, địa chủ, sĩ đại phu Trung Quốc đem theo cả gia đình và tộc thuộc di cư xuống Giao Châu, dựa vào chính quyền đô hộ mà sinh cơ lập nghiệp, xâm lấn ruộng đất và tài sản của người Việt. Lúc này, đại diện cho chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ là Tích Quang và ở Cửu Chân là Nhâm Diên. Cả Tích Quang và Nhâm Diên trước sau đều dùng lối sống Hoa cải biến phong hóa Việt. Họ mở trường dạy lễ nghĩa và buộc người Việt phải tuân theo lễ nghĩa Trung Quốc. Từ những việc như lấy vợ gả chồng cho đến việc ăn mặc, thậm chí cả việc tổ chức khai thác nông nghiệp cũng đều phải theo truyền thống, tập quán và kỹ thuật Hán....”
Các sử gia hiện đại cho rằng: sự pha trộn văn hóa, đời sống giữa Hán và Việt dẫn tới sự hỗn dung văn hóa cưỡng bức, theo đó quá trình năng động trên cơ tầng Việt đã vận hành theo cơ chế Hán. Đời sống văn hóa - xã hội Việt chuyển từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô hình mới: Hán - Việt.
“[…] người Việt nói chung không bài ngoại một cách mù quáng mà vẫn hấp thụ có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại sinh để làm phong phú thêm bản sắc riêng cho chính mình. Thời kỳ này đã bắt đầu có sự truyền bá vừa ôn hòa vừa cưỡng bức lối sống văn minh- văn hóa Hán vào đất Việt. Truyền bá ôn hòa qua giao lưu kinh tế-văn hoá, qua di dân Trung Quốc sang, còn truyền bá cưỡng bức, qua bọn đô hộ với các biện pháp hành chính- quân sự. Như thế, trên cơ tầng văn hóa Việt đã vận hành một cơ chế Hán, trong đó lối sống và văn hóa Việt tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hóa Hán, đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán, và đang dần dần biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang một mô thức mới: Việt- Hán.”[4]
 Chính quyền đô hộ áp dụng luật pháp hà khác, thẳng tay đàn áp các cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân ta.
Người soạn: Đỗ Xuân Giang

Tài liệu tham khảo
1.      Ngô Sĩ Liên (2007), Đại Việt Sử kí Toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.      Trần Trọng Kim (2011),Việt Nam sử lược, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3.       Trương Quang Ngọc (2012), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.




[1] Trần Trọng Kim (2011),Việt Nam sử lược, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.43-44.
[2] Ngô Sĩ Liên (2007), Đại Việt Sử kí Toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[3] Trương Quang Ngọc (2012), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 38.
[4] Trương Quang Ngọc (2012), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 38.



Nhận xét