Trang phục Triều Lý (1009-1225) - Phần 2

Trang phục quan lại
Thời Tiền Lê, vị vua cuối cùng là Lê Long Đĩnh đã cải cách trang phục học theo lối nhà Tống đương thời.
Nhà Lý thay thế vẫn tiếp thu đường lối này, nên có thể nói trang phục quan chức thời Lý có nét giống nhất định với trang phục Đường - Tống.
Cứ theo quy chế quan phục Đường - Tống thì quan chức có 3 loại áo:
Lễ phục: Mặc trong các ngày triều hội, lễ lạc quan trọng...
Triều phục: Mặc trong các buổi đại triều bàn việc quan trọng và các lễ lạc loại nhỏ.
Thường phục: Mặc trong các buổi thiết triều bình thường, mặc tại nơi làm việc, trong làm việc thường ngày.
Còn tiện phục mặc khi không phải làm việc thì thích gì mặc nấy, kể cả đóng khố cởi trần.
1) Lễ phục quan lại
Trong phần Lễ phục cho hoàng đế trước, mình có viết Cổn Miện là trang phục tối cao của hoàng đế.
Nhưng đúng ra phải nói là Cổn Miện là trang phục tối cao của triều đình phong kiến vì không phải Hoàng đế mới có Cổn Miện mà các thân vương đại thần cũng có, dĩ nhiên Cổn Miện của quan chức không thể bằng Cổn Miện của Hoàng đế được.
Ví dụ theo quy chế Đường - Tống thì tước Vương cũng có Cổn Miện nhưng mũ miện không được phép có 12 dây lưu 12 viên ngọc mà chỉ có 9 dây 9 ngọc, hoa văn cũng chỉ được trang trí có 9 cấm được 12.
Theo quy chế nhà Trần chỉ hoàng để và quan từ đại liêu (khoảng tam phẩm) trở lên mới được mặc Cổn Miện.
Nhà Nguyễn thì quy định chỉ chức quan từ chính tam phẩm trở lên mới được mặc Cổn Miện..
Ghi chép duy nhất về Lễ phục thời Lý có liên quan là "Đại Việt Sử ký Toàn thư" năm 1206 vua Lý Cao Tông :"Cho Đàm Dĩ Mông làm Thái Bảo cho phép đội mũ Củng Thần" .
Mũ Củng Thần là loại mũ tế lễ thời Tống.
Như vậy suy ra quan chức thời Lý có 2 loại lễ phục Cổn Miện và Củng Thần có điều do tư liệu không có đủ nên cách dùng, hình dáng... ra sao không thể biết.
Ngay như trong sách "Ngàn năm áo mũ" cũng không khảo cứu nổi nên mình chỉ có thể nói tới đây thôi.

2) Triều phục quan lại
Như đã nói, nhà Lý học quan phục theo lối nhà Tống vì vậy triều phục được dùng sẽ là bộ trang phục Lương Quan (梁冠) nó bao gồm:
a) Mũ Lương Quan (
梁冠)
Mũ Lương Quan hay còn gọi là Mũ Tiến Hiền (進賢冠)
Sở dĩ được gọi là Lương Quan vì mũ này có các viền (lương) trên mũ, tùy theo cấp bậc thì sẽ có bấy nhiêu viền, cao nhất là có 9 viền cho cấp vương, nhất phẩm 7 viền, thấp nhất là 1 viền.

Hình 1.Mũ Lương Quan nhìn ở 3 mặt

Hình 2.Mũ Lương Quan nhìn ở 2 mặt

Hình 3.Mũ Lương Quan trong "Tam tài đồ hội" 
(ảnh trên là loại 7 viền, ảnh dưới là loại 1 viền)

Hình 4. Hiện vật mũ Lương Quan thời Minh trưng bày tại Khổng Phủ (nhìn ở 3 mặt)

Hình 5. Phục dựng mũ Lương Quan đi với lễ phục Chu y

Tại nước ta thời Lý "Đại Việt Sử ký Toàn thư" có ghi nhận rằng: "Năm 1129, vua Lý Thần Tông cho Lý Tử Khắc làm Khu mật sứ, liệt vào trật minh tự, được đội mũ Thất Lương Quan (Mũ Lương Quan có 7 viền) ".
Có thể thấy nhà Lý đã học chế độ của nhà Tống vì theo quy chế nhà Tống: Khu mật sứ, Thái tử Thái bảo, liệt vào đệ nhị đẳng đều được đội mũ Thất Lương Quan.
Ngoài ra còn một thứ nữa cũng cần phải chú ý đến đó là Lung Cân ().

Hình 6. Lung Cân trong "Tam tài đồ hội"

b) Lung Cân ()
Lung Cân là loại mũ phụ kiện được làm bằng mây phết sơn đen thường được dùng để bọc bên ngoài mũ Lương Quan, thêm đó Lung Cân được trang trí con ve bên trên, 2 cánh mũ mỏng nhẹ như cánh ve sầu nên có tên khác là mũ Điêu Thiền (Xác ve).

Hình 7. Lung Cân trong phim “Tân Thủy Hử” (2011)

Hình 8.Chân dung Xương Bình Hầu Dương Nghiệp nhà Bắc Tống mặc triều phục
đội mũ Lương Quan bọc Lung Cân


Hình 9.Chân dung Tể tướng Hàn Kỳ nhà Bắc Tống mặc triều phục đội
mũ Lương Quan bọc Lung Cân

Theo quy chế nhà Tống chỉ có Tể tướng, thân vương, quan đến chức Tam sư và Tam công mới được đội Lung Cân.
Nhà Lý học theo nhà Tống về quan phục nên rất có khả năng Lung Cân cũng được dùng tuy nhiên do chưa có sử liệu xác thực nên xin ghi thêm để tham khảo.
c) Chu y (
朱衣), Chu thường (朱裳)
Theo quy định của nhà Tống thì 3 loại mũ Lương Quan, Lung Cân, Giải Trãi luôn phải mặc cùng với Chu y (Áo đỏ), Chu thường (Thường Đỏ).
Quy chế của Chu Y, Chu Thường theo "Trung Quốc phục trang sử" là: "Áo bào và thường may bằng lụa đỏ, bên trong mặc áo lót trung đơn bằng lụa trắng, thắt đại đới, rồi thắt cách đới, quây tế tất bằng lụa đỏ, đeo phương tâm khúc lĩnh, cầm hốt, đi tất may bằng lĩnh trắng, giày da đen".

Hình 10.Phục dựng trọn vẹn bộ trang phục Lương Quan đi với Chu y, Chu thường

Hình 11. Tranh vẽ "Thần y" Hur Jun (Hứa Tuấn ) mặc triều phục Lương Quan

Hình 12.Chân dung Trinh Tĩnh Công nhà Minh mặc triều phục Lương Quan

Tại nước ta bộ triều phục Lương Quan này được dùng dưới thời Tiền Lê - Lý , thời Trần - Hồ không được dùng, tới thời Hậu Lê và Tây Sơn được dùng tiếp nhưng với vai trò là lễ phục cho các quan, sang thời Nguyễn thì không dùng nữa.

3) Thường phục quan lại
a) Mũ Phốc Đầu (幞頭冠 - Phốc Đầu Quan)
Mũ Phốc Đầu hay chúng ta còn gọi nôm na là mũ cánh chuồn. Thường phục thời Lý thời Thái Tổ, Thái Tông vẫn theo quy tắc nhà Tiền Lê. Sang tới năm 1059, Lý Thánh Tông đổi quy chế theo nhà Tống. 
Mũ Phốc Đầu có nguyên gốc từ thời Đường, ban đầu là một dạng khăn vấn mềm, sau khi vấn lên đầu sẽ buông 2 dải khăn xuống gọi là "Chiết thượng cân".

Hình 13. Mũ Phốc Đầu thời Đường có dạng khăn vấn

Hình 14.Tranh chân dung Thi tiên Lý Bạch vấn khăn Phốc

Quy định nhà Đường chỉ có vua mới được dùng mũ có 2 cánh chuồn cứng.

Hình 15. Tranh chân dung Đường Duệ Tông Lý Đán
Sang tới đời Tống, Phốc Đầu được chuyển sang dạng vuông cứng với 2 cánh chuồn, 2 cánh này có khung thường bằng sắt hay tre, có các dạng khác nhau như cánh thẳng (trực cước) , cánh gập (cục cước), hai cánh vắt chéo nhau (giao cước), hai cánh chĩa thẳng lên trời (triều thiên), 2 cánh cong chếch lên trên (thuận phong)

Hình 16.Mũ Phốc Đầu trong "Tam tài đồ hội"

Mũ Phốc Đầu thời Tống chủ đạo là loại mũ trơn không hoa văn, dáng vuông cánh chuồn thẳng thuôn dài, được quy định là mũ đội bắt buộc cho bách quan.

Hình 17.Chân dung Tể tướng Vương An Thạch nhà Bắc Tống đội mũ Phốc Đầu

Hình 18. Chân dung Tư Mã Quang thời Bắc Tống

Tại nước ta, Phốc Đầu được dùng làm mũ thường triều cho quan lại từ nhà Lý tới tận năm 1300 Trần Anh Tông phế bỏ chuyển sang dùng mũ Đinh Tự  tới cuối thời Lê Thái Tông nhà Hậu Lê mới được khôi phục lại nhưng không còn phỏng theo dạng Phốc Đầu nhà Tống nữa mà là phỏng theo dạng Phốc Đầu nhà Minh.
Nhà Lý áp dụng quan phục của nhà Tống tức là về đại thế cũng là kiểu Phốc Đầu có cánh thuôn dài tuy nhiên cái khác biệt lớn nhất của Phốc Đầu nhà Lý được trang sức rất nhiều hoa văn vàng bạc, đá quý lên trên chứ không phải là dạng Phốc Đầu trơn.
Đây không chỉ là đặc điểm của nhà Lý mà là đặc điểm xuyên suốt của các triều đại nước ta, đó chính là chỗ tiểu dị trong cái đại đồng.
b) Bào phục 
Trong "Lĩnh Ngoại đại đáp" có miêu tả sứ thần Lý sang nhà Tống mặc áo tía.
Phan Huy Chú cũng ghi nhận chế độ quan phục của nhà Lý giống nhà Tống, tức là quan lại lấy màu tía (tím) là cao nhất, dưới là đỏ, dưới nữa là xanh lá, rồi tới xanh biếc, cuối cùng là xanh nước biển.
Bào phục của bá quan thời Tống là dạng áo cổ tròn, không có hoa văn, phân biệt phẩm trật qua màu sắc, nếu có hoa văn thì chỉ được thêu chìm chứ không thêu nổi.


Hình 19.Tranh vẽ Tể tướng Hàn Thác Trụ thời Nam Tống 

Về chất liệu may áo, “Đại Việt Sử ký Toàn thư” cho biết “năm 1040 Lý Thái Tông đã dạy cung nữ dệt gấm vóc, ban hết gấm vóc nhà Tống trong kho để may áo cho các quan, quan từ nhất tới ngũ phẩm được mặc áo bào gấm, từ lục tới cửu phẩm mặc áo bằng vóc”.
Năm 1044, các quan có công thảo phạt Chiêm Thành lại được ban thưởng áo bào, từ nhất tới lục phẩm áo bằng gấm, thất đến cửu phẩm bằng là.
Qua đó có thể thấy nhà Lý có quy chế quan từ nhất tới ngũ phẩm áo làm bằng gấm, từ lục tới cửu phẩm bằng vóc hoặc là. 
Bên cạnh bào phục và mũ Phốc Đầu, quan lại còn có các phụ kiện:

c) Đai lưng

Hình 21.Đai ngọc thời Minh

d) Hốt ()
Nguồn gốc của hốt là một thứ đồ được làm bằng gỗ, tre các quan lại ghi những điều cần tâu vào đó cho khỏi quên lúc lên triều theo đó mà tâu bày.
Sau này hốt trở thành vật phụ kiện trang trí thể hiện thứ bậc, địa vị được làm bằng ngọc, ngà, vàng, bạc.

Hình 22.Tranh vẽ Quách Tử Nghi đời Đường (cái ông ấy cầm trong tay là hốt)

Hình 23.Hốt thời Tống

e) Ngư đại (魚袋)
“Tống sử” cho hay Ngư đại khởi nguồn từ thời nhà Đường, ban đầu được dùng như một loại thẻ an ninh, các quan lại được cấp 2 thẻ ngư đại, đeo ở 2 bên hông buộc vào đai lưng, trên ghi thông tin cá nhân. Khi vào cung xuất trình một cái ngư đại bên này, ra cung lại xuất trình cái ngư đại bên kia.
Sang đến thời Tống, Ngư đại trở thành đồ trang sức dùng để thể hiện đẳng cấp, phân biệt sang hèn.
Ngư đại thời Tống được khắc hình con cá chất liệu là vàng, bạc, ngọc ...và thường chỉ có quan văn đeo.

Hình 24.Ngư đại thời Tống

Hình 25. Ngư đại Nhật Bản
(Không phải Ngư đại nào cũng có hình con cá mà có loại chỉ khắc hình cá lên trên thôi)

Cách dùng ngư đại của Nhật Bản cũng như các nước Á Đông khác đều là buộc vào đai lưng ở bên hông.
Triều đình thời Lý - Trần cũng như Đường - Tống cũng có lệ coi Ngư đại như một tặng phẩm ban thưởng cho các quan có công.
Trong "An Nam Chí lược" của Lê Tắc có chép rằng dịp đại lễ "quan văn đeo Kim Ngư, quan võ không đeo". Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương loại chí" cũng viết: "Theo Văn kim thạch (Tức bia đá) còn lại, các quan triều Lý phần nhiều được ban áo đỏ - Ngư đại, Kim Ngư đại thì biết thời bấy giờ noi theo chế độ nhà Tống. Quy chế Ngư đại không biết đến thời nào không dùng nữa".
Tuy nhiên Phan Huy Chú viết trong "Lịch Triều hiến chương loại chí" như vậy cũng chưa hẳn chính xác vì trong "Đại Việt thông sử" của Lê Quý Đôn vẫn ghi nhận khoảng từ năm 1426 tới 1460 Lê Lợi vẫn ban cho các công thần Kim Ngư.

Người sưu tầm: Đỗ Xuân Giang

Nhận xét