Hình 1. Đảng kỳ
Cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh nhân dân có sự phối hợp các mặt trận
chính trị, quân sự và ngoại giao. Để phát huy mặt trận ngoại giao chống Mỹ, Đảng
Lao động Việt Nam thúc đẩy tiến hành mở mặt trận ngoại giao đấu tranh chính diện
với Mỹ, nhằm bàn về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam mà
việc đầu tiên là buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân lần thứ nhất.
1. Trên đà thắng
lợi ở chiến trường, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 khóa III,
tháng 1 - 1967, quyết định đẩy mạnh chiến đấu trên cả hai miền, đồng thời đề ra
chủ trương đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết của Hội nghị phân tích: “Đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định giành
thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.
Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành
được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản
ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với
tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò
quan trọng, tích cực và chủ động” [1].
Hội nghị nêu ra
mục đích, nhiệm vụ của cuộc tấn công ngoại giao lúc này là nhằm tố cáo mạnh mẽ
hơn nữa tội ác của đế quốc Mỹ, vạch trần những thủ đoạn hòa bình giả hiệu của
chúng; đề cao lập trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
“Tuyên bố năm điểm” của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế
giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 13 xác định:
Trước mắt khẩu hiệu “là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném
bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [2].
Thi hành chủ
trương đấu tranh ngoại giao mới, ngày 28 - 1 - 1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Duy Trinh tuyên bố: Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến
tranh chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với
Mỹ có thể nói chuyện được. Tuyên bố này có ý nghĩa tấn công ngoại giao lớn - tỏ
thiện chí hoà bình, giành thế chủ động về ngoại giao, làm thất bại hẳn luận điệu
“đàm phán không điều kiện” của Mỹ.
Chính quyền
Johnson chịu sức ép rất lớn, đối phó khá bị động và lúng túng. Ngày 8 - 2 -
1967, Tổng thống Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, đề cập tuyên bố ngày
28 - 1 của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nêu hai trở ngại lớn:
Một là gây ra sự suy đoán rộng rãi rằng các cuộc nói chuyện đã bắt đầu và sẽ
làm mất tính chất riêng và mật của cuộc nói chuyện. Hai là Mỹ lo ngại rằng
Chính phủ Việt Nam sẽ lợi dụng việc ngừng ném bom để củng cố về quân sự...
Ngày 15 - 2 -
1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư trả lời Tổng thống Mỹ, khẳng định: “Chính phủ
Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt
Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược. Chính phủ Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và không
điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa; phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt
Nam; phải thừa nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; phải để nhân
dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình... Trong thư Ngài có đề ý
kiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ trực tiếp nói chuyện. Nếu Chính phủ Mỹ thật
muốn nói chuyện thì trước hết Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và
mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[3].
Dư luận nước Mỹ
cũng đòi Nhà Trắng đáp ứng đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều nghị
sĩ, nhiều tờ báo lớn ở Mỹ đòi Mỹ chấm dứt ném bom để nói chuyện.
Tháng 7 và tháng
8 - 1967, chính quyền Mỹ gửi thông điệp ngừng ném bom có điều kiện và đòi “có
đi có lại”. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bác bỏ. Phát huy thế chủ động,
góp phần tăng sức ép với Mỹ, ngày 29 - 12 - 1967, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa lại tuyên bố: “Sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc
ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề có liên quan. Nội
dung cơ bản của tuyên bố này giống tuyên bố 28 - 1 - 1967, nhưng lần này Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định dứt khoát “sẽ nói chuyện” thay cho “có thể nói
chuyện” [4].
Từ đầu năm 1967,
thế chiến trường và thế ngoại giao của Việt Nam đều tốt lên. Với Tuyên bố 28 -
1 - 1967 được bổ sung bằng Tuyên bố 29 - 12 - 1967, thế chủ động ngoại giao của
Việt Nam được phát huy mạnh mẽ. Dư luận rộng rãi trên thế giới ủng hộ lập trường
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận, đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc,
công nhận và nói chuyện với Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Cuối năm 1967, ở
miền Nam, hai cuộc phản công chiến lược mùa khô bằng lực lượng Mỹ đều thất bại.
Phong trào đoàn kết với Việt Nam ngày càng, mở rộng, chính quyền Mỹ đang ở thế
tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Tháng 12 - 1967, Bộ Chính trị Đảng Lao động
Việt Nam ra nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Nghị quyết đó được
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 1 - 1968), thông qua. Bộ Chính trị hạ
quyết tâm chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam sang “thời
kỳ giành thắng lợi quyết định. Cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ
là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp,
một quá trình liên tục tiến công, truy kích, tiêu diệt, đánh đổ địch về quân sự
và chính trị” [5].
Trên mặt trận
ngoại giao, cần có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công địch trong
lúc chúng đang lúng túng, bị động, “phải mở đường cho địch đi vào thương lượng
theo hướng có lợi nhất cho ta” [6].
Tổng tấn công và nổi dậy
Mậu Thân gây một chấn động chính trị và tâm lý mạnh mẽ, sâu sắc đối với nước Mỹ.
Nhân dân Mỹ theo dõi tình hình chiến sự ở miền Nam. Nội bộ chính giới, chính
quyền Mỹ dao động rối ren. Thắng lợi Tết Mậu Thân đã giáng một đòn mạnh làm
lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
Tối 31 - 3 -
1968, Tổng thống Johnson xuất hiện trên đài truyền hình Mỹ. Sau khi trình bày lại
tình hình chiến sự ở miền Nam trong cuộc tổng tiến công của “Việt Cộng”,
Johnson nói rõ: Đã đến lúc bắt đầu nối lại về hòa bình và tôi sẵn sàng đi bước
đầu tiên trên con đường một cuộc xuống thang. Cuối bài phát biểu truyền hình, Tổng
thống Johnson tuyên bố: Tôi không mưu cầu và cũng không chấp nhận việc Đảng tôi
đề cử tôi ra tranh cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Đối với tiến
trình giải pháp, Tổng thống Mỹ đã chấp nhận đơn phương chấm dứt ném bom không
điều kiện miền Bắc Việt Nam trừ phía bắc của khu phi quân sự và chấp nhận
thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên bố của Tổng thống Mỹ đánh dấu
những thay đổi lớn trong chiến lược của Mỹ, từ tăng cường leo thang chiến tranh sang xuống thang chiến
tranh, từ khước từ thương lượng sang nhận thương lượng. Tuy nhiên, phía Mỹ chưa đáp ứng hoàn toàn
những điều kiện do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nêu lên.
Về phía Việt
Nam, đàm phán ngay là quá sớm, bác bỏ đề nghị thương lượng của Johnson thì
không tranh thủ được dư luận thế giới và dư luận Mỹ. Bộ Chính trị Đảng Lao động
Việt Nam (khóa III) chủ trương có thể tiếp xúc, nhưng trước hết cần ép Mỹ chấm
dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc rồi mới bàn các vấn đề liên quan.
Trải qua gần một
tháng chọn địa điểm ngoại giao, đến ngày 2 - 5 - 1968, Việt Nam đề nghị lấy
Paris làm địa điểm họp chính thức và cử Bộ trưởng Xuân Thủy làm Trưởng Đoàn Đại
biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại cuộc đàm phán và đề nghị phiên họp
đầu tiên tổ chức vào ngày 10 - 5 hoặc vài ngày sau đó. Chính phủ Mỹ chấp nhận và cử
Averell Harriman, một nhà ngoại giao nổi tiếng của Mỹ làm Trưởng Đoàn đại biểu
Chính phủ Mỹ. Ngày 3 - 6 -
1968, ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ tới Paris tham gia đàm phán trực tiếp, với
tư cách là cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam.
Hình 2. Ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ
2. Ngày 13 - 5,
hai đoàn đại biểu Việt Nam và Mỹ chính thức gặp nhau lần đầu tại hội trường các Hội nghị Quốc
tế tại đại lộ Kléber, đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam:
đọ sức trên mặt trận ngoại giao đồng thời với trên chiến trường; với Việt Nam
là tạo cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Mũi nhọn và tiêu điểm của mặt trận ngoại
giao lúc này là cuộc đàm phán Paris về Việt Nam. Cuộc đấu tranh ngoại giao này
tiêu biểu cho cuộc đối đầu giữa hai nền ngoại giao đối lập nhau. Một bên là nền
ngoại giao cách mạng, trưởng thành qua đấu tranh thực tiễn của hai cuộc kháng
chiến cứu nước, dựa vào chính nghĩa và sức mạnh của dân tộc, kế thừa truyền thống
ngoại giao của dân tộc mấy nghìn năm văn hiến. Một bên là nền ngoại giao của một
đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực dồi dào, có quan hệ quốc tế rộng, nhiều kinh nghiệm,
mưu mô, thủ đoạn và luôn luôn muốn thương lượng trên thế mạnh.
Điều đó đã chứng
minh rằng, ngoại giao Việt Nam đã trưởng thành, giữ vững độc lập tự chủ, quyền
chủ động tấn công, để thực hiện: “Ta biết phát động chiến tranh cứu nước thì ta
cũng biết cách chấm dứt chiến tranh một cách có lợi nhất” [7].
Phiên đầu tiên bắt
đầu ngày 13 - 5 - 1968. Thời điểm bắt đầu đàm phán đồng thời là thời điểm Việt
Nam mở những chiến dịch lớn trên chiến trường. Từ ngày 5 - 5 - 1968, quân dân
miền Nam mở đợt hai cuộc tổng tấn công đánh vào 31 thành phố, thị xã, 58 thị trấn,
30 sân bay. Hướng tấn công chính là Sài Gòn - Gia Định. Chủ trương của Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ đầu của cuộc nói chuyện ở Paris là dùng
đàm phán để tiến công địch, tranh thủ dư luận phục vụ đấu tranh quân sự trên
chiến trường. Các bài phát biểu trong các phiên họp hàng tuần của đoàn Việt Nam
tập trung lên án Mỹ xâm lược miền Bắc, đánh phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một
nước độc lập, có chủ quyền, lên án chế độ Sài Gòn tay sai Mỹ phá Hiệp định
Giơnevơ, chống hiệp thương tổng tuyển cử, chia cắt lâu dài nước Việt Nam. Nhưng
mọi lời lẽ đều xoáy vào vấn đề trung tâm: Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném
bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phía Mỹ cũng biện bạch và phản kích bằng các lập
luận chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vi phạm Hiệp định Giơnevơ, xâm lược miền
Nam, giúp đỡ Mặt trận Dân tộc Giải phóng “hoạt động lật đổ”... Mỹ tập trung đòi
chấm dứt chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, đòi khôi phục lại khu phi quân sự,
rút quân miền Bắc.
Phương hướng đàm
phán của Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với việc vận dụng Hiệp định Giơnevơ
là tập trung vào các điều khoản chính trị có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, không vận
dụng các điều khoản ngắn hạn, đã hết giá trị. Phiên họp nào Mỹ cũng xoáy vào
đòi khôi phục khu phi quân sự. Đoàn Việt Nam lập luận: “Mỹ xâm lược miền Nam, Mỹ
đưa quân vào bằng đường thủy, đường không, Mỹ vi phạm toàn bộ Hiệp định Giơnevơ,
trong đó có khu phi quân sự. Mỹ đòi khôi phục quy chế khu phi quân sự chỉ là nhằm
che giấu nguồn gốc cuộc chiến tranh, làm như chiến tranh, bắt nguồn từ khu phi
quân sự. Việc giải quyết vấn đề khu phi quân sự không thể tách rời vấn đề cơ bản
là Hoa Kỳ chấm dứt xâm lược, rút hết quân Mỹ khỏi miển Nam” [8] .
Ngày 4 - 6 -
1968, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh chỉ thị cho đoàn ta ở Paris: “Tiếp
tục làm tốt việc đấu tranh công khai và chuẩn bị lúc nào thuận lợi thì vừa nói
chuyện công khai vừa nói chuyện hậu trường để thăm dò chứ chưa đi vào mặc cả” [9].
Hình 3. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tại Hội nghị Paris
Từ ngày 17 - 6 -
1968, hai bên bắt đầu có những cuộc gặp nhau ở cấp đoàn viên và từ ngày 27 - 6 ở
cấp phó trưởng đoàn. Gần giống như ở các cuộc họp công khai, tại các cuộc gặp
riêng, đoàn Việt Nam vẫn đòi Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện và kiên quyết
bác đòi hỏi “có đi có lại” của Mỹ. Từ ngày 27 - 6, phía Mỹ nói Mỹ sẵn sàng chấm
dứt ném bom miền Bắc nhưng muốn biết trước thỏa thuận về “hoàn cảnh thích hợp”.
Họ giải thích “hoàn cảnh thích hợp” là khôi phục khu phi quân sự, không bắn
pháo qua khu phi quân sự, không tăng cường lực lượng từ miền Bắc cho Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, không bắn pháo vào các thành phố. Phía Việt
Nam bác bỏ và đòi chấm dứt ném bom không điều kiện và nói thêm: “Nếu các ông chấm
dứt ném bom miền Bắc thì chúng tôi tự biết cần phải làm gì” [10].
Từ giữa tháng 8
- 1968, trong cuộc gặp riêng, phó đoàn Mỹ lại chuyển sang “tìm kiếm những dấu
hiệu trực tiếp hoặc gián tiếp”, tức là Mỹ muốn biết khi Mỹ chấm dứt ném bom miền
Bắc thì điều gì sẽ xảy ra trên chiến trường, ở khu phi quân sự, ở các đô thị miền
Nam.
Đầu tháng 8 -
1968, lúc quân và dân miền Nam chuẩn bị cuộc tổng tấn công đợt ba, tại bàn đàm
phán bắt đầu các cuộc tiếp xúc bí mật ở cấp trưởng đoàn Lê Đức Thọ - Xuân Thủy
với Harriman. Mấy cuộc gặp trong tháng 8 chủ yếu để làm quen và thăm dò.
Từ đầu tháng 9 -
1968, tình hình chung xuất hiện những nhân tố mới. Trên chiến trường, cuộc tổng
tấn công đợt ba của quân và dân miền Nam kết thúc, lực lượng giải phóng tổn thất,
phải chuyển sang củng cố. Về phía Mỹ, cuộc vận động bầu cử đi vào giai đoạn gay
cấn, ứng cử viên của Đảng Dân chủ Humphrey, phó tổng thống, thua điểm trong các
cuộc thăm dò dư luận (29%); ứng cử viên Đảng Cộng hòa Nixon (Nichxơn) luôn dẫn
điểm (với tỷ lệ 45%). Chính quyền Đảng Dân chủ có nhu cầu lớn, cấp bách thúc đẩy
đàm phán Paris tiến triển để hỗ trợ cho ứng cử viên của Đảng Dân chủ trong bầu
cử.
Trưởng đoàn Mỹ
Harriman đề nghị: Mỹ sẽ ngừng ném bom khi việc đó dẫn tới các cuộc “nói chuyện
nghiêm chỉnh”. Harriman giải thích “nói chuyện nghiêm chỉnh” là để nhân dân Việt
Nam được quyền quyết định tương lai của mình cho nên phải có đại diện của Việt
Nam Cộng hòa tham gia. Mỹ cũng sẵn sàng chấp nhận phía Việt Nam có đại diện của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng tham gia, dù Mỹ không công nhận mặt trận và đề nghị
lấy Hiệp định Giơnevơ làm cơ sở thương lượng. Phía Mỹ thanh minh đó không phải
là đặt “điều kiện”. Harriman nói nếu như Chính phủ Mỹ quyết định chấm dứt ném
bom không điều kiện thì Mỹ có quyền được biết là cuộc nói chuyện “nghiêm chỉnh”
có được tiến hành không. Phía Việt Nam hiểu là Mỹ chỉ còn tập trung vào một vấn
đề là sự tham gia của chính quyền Sài Gòn vào giai đoạn hai của cuộc đàm phán.
Để Mỹ phải xác
nhận quan điểm về vấn đề chấm dứt ném bom không điều kiện, ngày 11-10, Trưởng
đoàn Việt Nam đặt hai câu hỏi:
(1) Có phải các
ông yêu cầu cho chính quyền Sài Gòn là một bên tham gia đàm phán và sau khi các
ông đã biết rõ trả lời của chúng tôi đối với yêu cầu này thì các ông có thể chấm
dứt ném bom không?
(2) Có phải các
ông biết trước được như vậy thì như thế chỉ nhằm có lý do để chấm dứt ném bom
chứ không phải là điều kiện có đi có lại cho việc chấm dứt ném bom?
Cyrus Vance, phó
đoàn Mỹ, trả lời thay Harriman: Đây không phải là điều kiện, không phải yêu cầu
có đi có lại mà chỉ là định nghĩa chữ “nói chuyện nghiêm chỉnh” thôi, về câu hỏi
thứ nhất, chúng tôi phải báo cáo về cho tổng thống và chính phủ chúng tôi.
Trong cuộc gặp ngày 15-10, Harriman đọc chỉ thị của Washington.
Trưởng đoàn Xuân
Thủy khẳng định tại phiên họp trước Mỹ đã tuyên bố việc chấm dứt ném bom là
không có điều kiện có đi có lại, rồi đọc một tuyên bố ngắn: “Nếu Hoa Kỳ chấm dứt
không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thì sau khi Hoa Kỳ làm việc đó chúng tôi đồng ý sẽ có đàm
phán bốn bên, trong đó có đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại diện Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đại diện Chính phủ Hoa Kỳ, đại diện chính
quyền Sài Gòn, để bàn một giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam” [11].
Ngày 21 - 10,
Trưởng đoàn Xuân Thủy thông báo chính thức cho phái đoàn Mỹ: “Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi đã trao đổi ý kiến với Ủy ban Trung ương Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng ý rằng sau khi Hoa Kỳ chấm dứt hoàn
toàn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ có cuộc hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa
về việc tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam trên cơ sở tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Muốn cho hội nghị đó tiến hành
được tốt, đại diện hai bên cần họp trù bị càng sớm càng tốt” [12].
Như vậy với đề
nghị đó, mục tiêu cơ bản của Việt Nam trong hội nghị Việt Nam - Mỹ tại Paris đã
đạt được: hai bên thỏa thuận việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và sẽ họp hội
nghị các bên tham chiến để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam.
Các vấn đề cụ thể
được thỏa thuận giải quyết như sau:
Về tên hội nghị,
phía Việt Nam đề nghị gọi là hội nghị bốn bên; phía Mỹ muốn gọi là hội nghị hai
phía, một phía là Mỹ và một phía là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuối cùng không
nhất trí được thì mỗi bên gọi theo cách của mình.
Về ngày họp, Mỹ
muốn hai đến ba ngày sau khi chấm dứt ném bom thì họp bốn đoàn, nếu chậm chấm dứt
ném bom thì cuộc họp sẽ chậm lại. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói còn phải
trao đổi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Tuy nhiên, giữa
chính quyền Johnson và Nguyễn Văn Thiệu đã xảy ra sự bất hòa nghiêm trọng.
Trong Hồi ký của mình, Tổng thống Johnson viết: “khi chúng ta đạt được sự dàn xếp
với Hà Nội thì sự hòa hợp với Tổng thống Thiệu lại tan vỡ” [13].
Chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu phản đối ý kiến đó. Ngày 31-10-1968, Johnson buộc phải bỏ qua ý kiến
của Thiệu và hạ lệnh cho không quân và hải quân Mỹ chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng
không quân và hải quân muộn nhất trong 12 giờ tới.
Ngày 2 - 11,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố ghi nhận việc Mỹ chấp nhận chấm
dứt không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và việc mở hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Ngày 3 - 11, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đông bào và chiến sĩ cả nước tiếp tục chiến đấu
đến thắng lợi hoàn toàn, “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn
phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi” [14].
Cùng ngày, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố nêu rõ
lập trường của Mặt trận về giải pháp cho vấn đề miền Nam Việt Nam: Hoa Kỳ chấm
dứt chiến tranh xâm lược, rút quân Mỹ, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc
dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do ở miền Nam Việt Nam.
Cuộc chiến tranh
của nhân dân Việt Nam bước sang một giai đoạn mới: giai đoạn “cục diện đánh - đàm”.
Buộc được Mỹ chấm
dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá miền Bắc là một thắng lợi lớn có ý nghĩa
chiến lược đối với cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam. Việt Nam
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, tạo điều kiện củng cố
hậu phương và niềm tin cho nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Dừng không quân
đánh phá miền Bắc, Mỹ ngang nhiên tân công một nước có chủ quyền. Nay phải chấm
dứt hành động chiến tranh chống phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không điều kiện,
Mỹ phải chấp nhận một thất bại cả về chính trị và pháp lý. Mỹ thất bại trong
“Chiến tranh cục bộ”, phải thay đổi chiến lược, phải tìm con đường khác để rút
khỏi chiến tranh.
Phát huy thắng lợi
của quân và dân ta trên chiến trường và lợi dụng sức ép của dư luận quốc tế đối
với chính quyền Johnson và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, ngoại giao Việt Nam đã
triển khai có hiệu quả chủ trương đàm phán, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh,
giành thắng lợi từng bước, góp phần đưa cục diện đấu tranh chống Mỹ xâm lược
sang giai đoạn mới. Cùng với thắng lợi trên chiến trường, đó là một thắng lợi của
ngoại giao Việt Nam.
Hình 4. Hội nghị Paris (27-1-1973)
Người viết: Huỳnh Thanh Mộng
Trích dẫn tài liệu
[1], [2] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 178, 179.
[3] Thư trả lời
Tổng thống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15-2-1967, lưu trữ Bộ Ngoại giao.
[4], [8], [10], [11], [12] Nguyễn Đình Bin (2015), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 231, 232, 234, 235, 235.
[5], [6] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 51, 64.
[7] Lương Viết
Sang (2005), Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại hội nghị Paris về
Việt Nam (1968 - 1973), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 124
[9] Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại
giao Việt Nam (1945 - 1995), T. 1, Ngoại giao Việt Nam 1945 - 1975, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, tr. 172.
[13] Nguyễn Phúc
Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, tr. 273
[14] Báo Nhân
dân, số 5317, ngày 3-11-1968.
Nguồn ảnh
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam#/media/File:Flag_of_the_Communist_Party_of_Vietnam.svg
2. https://baotintuc.vn/giai-mat/nguyen-duy-trinh-nha-ngoai-giao-xuat-sac-20150715112151353.htm
3. http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/nha-ngoai-giao-khong-lo-le-duc-tho-42446.html
4. http://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Chu-tich-Ho-Chi-Minh-voi-Hoi-nghi-Paris-ve-Viet-Nam-219250/
Nhận xét
Đăng nhận xét