Ngày
1/9/1858, Pháp nổ súng – mở đầu cho cuộc kháng chiến của dân tộc ta tại mặt trận
Đà Nẵng. Đà Nẵng là cổ họng của Huế, chỉ cách Huế 100km về phía nam. Nếu chiếm
được Đà Nẵng thực dân Pháp sẽ có khả năng chiếm ngay kinh thành Huế và sớm kết
thúc chiến tranh.
Người chỉ huy hạm đội Pháp là Phó Đô Đốc
R.de.Genouilly – là một người từng chinh chiến nhiều năm trên chiến trường Nga
và Trung Quốc, có trong tay 14 tàu chiến và 3000 quân. Ngoài ra, trên mặt trận
Đà Nẵng còn có 500 quân Tây Ban Nha. Sự có mặt của quân Tây Ban Nha trong cuộc
chiến tranh xâm lược này vì họ cũng bị “kích động” cho các giáo sĩ dòng Đa Minh
của họ bị vua Tự Đức sát hại.
Việc
Đà Nẵng bị tấn công không hề bất ngờ với triều đình (theo sách Dương sự thủy mạt). Trên sông Đà Nẵng và
bán đảo Sơn Trà đã được đắp thêm hai đồn lũy kiên cố, đèo Hải Vân cũng được xây
thêm các đồn phòng thủ, có sẵn đá hộc chặn giặc. Quân số thì có lúc lên tới gần
5000, và được trang bị thêm đại bác mới. Nhưng vũ khí lúc này vẫn lạc hậu hơn
liên quân Pháp - Tây Ban Nha nên triều đình không thể ngăn được quân Pháp đổ bộ
lên bán đảo Sơn Trà , quân triều đình phải lui về Hòa Vang.
Vua
Tự Đức lập tức xuống chiếu cách chức Tổng Đốc Trần Hoàng và Hồ Đức Tú , cử danh
tướng Nguyễn Tri Phương là Tổng đốc Quảng Nam và cùng Chu Phúc Minh ra Đà Nẵng
chặn giặc.
Nguyễn
Tri Phương đã chủ trương bao vây quân giặc bằng cách xây dựng một tuyến phòng
thủ từ Hải Châu tới Thạch Giản dài hơn 4km. Mục đích là muốn vây chặt quan
Pháp, không cho chúng đánh rộng ra. Chiến thuật này đã làm cho quân Pháp bị
giam chân trong 5 tháng liền, bị tiêu hao quân sĩ rất nhiều và bị dịch bệnh
hoành hành vì khả năng tiếp ứng từ đất liền hoàn toàn không có.
Trong
tình trạng ấy, buộc quân địch phải chuyển hướng. Và họ đã quyết định chuyển
quân vào Nam Kì - trước tiên là hướng Gia Định, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ở
bán đảo Sơn Trà.
Chỉ
trong hai ngày 16,17/2/1859 quân Pháp đã chiếm được thành Gia Định – một thành lớn
được Nguyễn Ánh cho xây dựng theo kiểu Vauban, sức chứa tới 1 vạn quân, nhưng
lúc đó chỉ có 1000 quân canh giữ. Tuy chiếm được Gia Định nhưng với lực lượng
có hạn quân Pháp không thể đánh rộng ran gay được. Lúc này, vua Tự Đức một mặt
hô hào lập các đội nghĩa dũng tại chỗ, mặt khác lại cử tướng Nguyễn Tri Phương,
Tôn Thất Cáp vào Gia Định làm Thống chế mặt trận Gia Định. Quân Pháp bị vây hãm,
nên đã dùng thuốc nổ phá thành Gia Định, đốt trụi mọi kho tàng, đưa quân xuống
đóng dưới tàu chiến đậu trên sông để tránh bị quân ta đột kích.
Cũng
trong thời gian này, nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược ở
Xyri, nên quân Pháp đành phải đốt trại và rút chạy ra khỏi vùng Đà Nẵng hoàn
toàn (23/3/1860). Như vậy, Đà Nẵng được giải phóng sau 1 năm 6 tháng 22 ngày bị
giặc chiếm. Điều đó cho thấy cơ hội hất quân địch ra khỏi Gia Định cũng rất lớn
nhưng quân ta vẫn nằm im trong phòng tuyến Chí Hoà mới xây dựng, trong tư thế
“thủ hiểm”.
Đến
năm 1861, thì Pháp có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trước. Điều ước Bắc Kinh
(1860), cho phép chúng rảnh tay hơn trong vấn đề Nam Kì. Đêm 23/2/1861, Sacne
đánh thẳng vào Đại đồn Chí Hòa; sau 2 ngày đại đồn bị san phẳng, trên 1000 binh
sĩ tử trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị mảnh đạn pháo vào bụng. Từ đây quân Pháp
lấn tới, mở cuộc hành quân đẫm máu dọc sông Bảo Định, lần lượt chiếm được Định
Tường (12/4), Biên Hòa (18/12- 23/3), thành Vĩnh Long. Năm 1862, chính phủ Pháp
tuyên bố lập ra chế độ Soái phủ ở Nam Kì –
đánh dấu bước mở đầu chế độ thuộc địa ở đây.
Quân
Pháp đã khôn ngoan chớp lấy cơ hội Tự Đức còn đang lưỡng lự, buộc ông kí Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) – đây là
bước đầu của sự đầu hàng của triều đình Tự Đức. Năm 1866, trong khi vua Tự Đức
bị choáng váng bởi cuộc nổi dậy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực ở kinh thành Huế thì
Bộ trưởng Hải quân Pháp đã nhận được thêm sự ủng hộ của chính giới Pháp. Ngay
giữa mùa mưa 1867, quân Pháp bất ngờ tiến công. Chỉ trong 4 ngày đã chiếm được
3 tỉnh miền Tây Nam Kì: Vĩnh Long (20/6), An Giang (21/6), Hà Tiên (24/6). Nét
mới trong việc đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây là quân Pháp không hề tốn viên đạn
nào .
Nổi
bật trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến là sự đóng góp của các đội dân
binh. Những lũy cát trồng tre kéo dài từ Sơn Trà đến An Hải, ra Mỹ Thịnh , Hóa
Khê,… đã chặn đứng bước tiến của quân giặc. Trong giai đoạn 1860 -1862, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Trương
Định. Ông đã làm cho quân Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng ở Gò Công, Rạch
Gía , Qúy Sơn, Tân An,… và ông còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Phan-Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” thêu
trên lá cờ “Bình Tây đại nguyên soái”.
Ngoài
ra, còn có nhân vật Nguyễn Trung Trực. Ông đã chỉ huy đánh thắng một trận rất lớn
trên sông Nhật Tảo, đốt cháy tàu Etperang của Pháp. Chiến thắng oanh liệt tiếp
theo là trận tập kích vào Rạch Gía (1868), giết tên tỉnh trưởng và hầu hết quân
Pháp trong trại. Và ông còn để lại hậu thế câu nói bất hủ: “Bao giờ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam chống
Tây.”
Những
cuộc chiến đấu ấy khi lên khi xuống vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố , nhưng không
khi nào chấm dứt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Quang Ngọc (2007), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
Người viết: Thành
Thị Mỹ Duyên, Sinh viên D16LS01,
Khoa
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Nhận xét
Đăng nhận xét