Hình 1. Bản đồ các cuộc tấn công trong sự kiện Mậu Thân.
Năm
mươi năm đã trôi qua nhưng những vấn đề xoay quanh cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân năm 1968 vẫn được đưa ra tranh luận tại các Hội thảo khoa học
trong và ngoài nước. Phải chăng, trận Tết Mậu Thân năm 1968 có tác động to lớn
đến lịch sử Việt Nam hiện đại nói riêng và lịch sử thế giới hiện đâị nói chung.
Trong
phạm vi bài viết này, tôi chỉ đưa ra nhận định và đánh giá về sự kiện Mậu Thân
1968. Các vấn đề khác liên quan xin được trao đổi ở các bài viết sau.
Trước
khi bước vào vấn đề, tôi xin giải thích một số khái niệm liên quan đến chủ đề:
Tổng tiến công (động từ) là tiến công có tính chất
chiến lược nhằm giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh.
Nổi dậy (động từ) là nổi lên thành lực lượng đông đảo chống lại trật tự xã hội.
Dưới đây là
những nhận định và đánh giá của cá nhân tôi về trận Mậu Thân năm 1968.
Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam (1954 - 1975), giai đoạn 1965 -
1968 được xem là giai đoạn đầy căng thẳng của cuộc chiến vì nó mở đầu đỉnh điểm
của cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam từ năm 1954. Và Trận Tết Mậu
Thân trong giai đoạn này đã trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới và là đề tài
được đưa ra bàn luận trong suốt 50 năm qua.
Sự kiện Tết Mậu
Thân năm 1968 (còn gọi là cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân năm 1968) nổ ra trong
điều kiện hết sức có lợi vì sau chiến thắng đánh bại cuộc phản công hai mùa khô
1965 - 1966 và 1966 - 1967 của Mỹ, so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho Quân
giải phóng, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mỹ trong cuộc bầu cử Tổng thống năm
1968.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương:
hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng miền Nam vào đô thị, nơi đặt
các cơ quan đầu não của địch. Một số đồng chí cho rằng miền Nam có cơ sở phát
động khởi nghĩa đồng loạt nhằm hưởng ứng với các mũi tổng tiến công.
Trong năm ngày, từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp Hội
nghị mở rộng, bàn về chủ trương và kế hoạch táo bạo này. Hội nghị quyết dịnh:
Về phương pháp: dùng Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa.
Về hướng tiến công: nhằm vào các đô thị toàn miền.
Về phương thức: tiến công và nổi dậy đồng loạt.
Về thời điểm: bắt đầu vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
Tháng 11/1967, Bộ Chính trị đã họp tiếp bàn về Kế hoạch Tổng khởi nghĩa
- Tổng công kích ở các đô thị miền Nam.[1]
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến
lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31-1-1968
(Tết Mậu Thân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30-1
đến 25-2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9-1968.
Ở miền Nam, quân dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong
tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quận lị, ở hầu khắp
các “ấp chiến lược” và các vùng nông
thôn. Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch
như Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh
Biệt khu Thủ đô, Tổng Nha cảnh sát, Đài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất,…
Hình 2. Quang cảnh bên ngoài Đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1968
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã đánh đòn bất
ngờ làm cho địch choáng váng. Sau khi đợt I của cuộc Tổng tiến công hoàn thành
những mục tiêu quan trọng ở các thành phố lớn, ta đã nhận thấy “các địa phương
không đạt được mục tiêu” và trên thực tế “đã không diễn ra Tổng khởi nghĩa như
dự kiến” (Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam - Nxb Quân đội nhân dân).Sở
dĩ ta nhận thấy được vì lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mỹ và đồng
minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), trong khi cơ sở ở thành thị mạnh nên chúng đã
nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn.
Những kinh nghiệm đợt I của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân Mậu Thân 1968 chưa
được phân tích đầy đủ để tiếp thu, thì tháng 5 và tháng 8, hai đợt tiến công
khác lại được mở tiếp mà hướng chĩnh vẫn nhằm vào đô thị, các chiến trường, các
địa phương được lệnh “đánh theo khả năng” (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự
Việt Nam - Lịch sử Quân sự Việt Nam). Vì vậy, lực lượng của ta gặp không
ít khó khăn và tổn thất: Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị
đẩy ra ngoài, những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ quân giải
phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại, nhiều vùng nông thôn được giải phóng
trước đây nay lại bị địch chiếm.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm
1973 đã nhận định về trận Mậu Thân năm 1968 như sau “ Có hạn chế đó là do ta:
chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình
hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời
kiểm điểm rút kinh nghiệm hay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển
hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của
ta”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã nhận xét về cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân năm 1968 như sau: “Cuộc Tổng tiến công vào một thời điểm bất
ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra Tổng khởi nghĩa là không phù hợp và
thực tế Tổng khởi nghĩa đã không diễn ra. Kéo dài tiến công vào đô thị khi
không còn yếu tố bất ngờ, chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững các
vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn. Do đó, đã gây cho ta nhiều khó khăn,
tổn thất rất nặng nề” (Võ Nguyên Giáp – Đồng chí Lê Duẩn, người cộng sản
trung kiên, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2005).[2]
Hình 3. Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp
Mặc dù có những tổn thất và hạn chế nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân năm 1968 vẫn có một ý nghĩa hết sức to lớn. Cuộc Tổng tiến
công này đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ
hóa” chiến tranh xâm lược, chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân ở miền Bắc vào ngày 1-11-1968, chấp nhận đàm phán ở
Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh vào ngày 25-1-1969.
Như vậy, ta có thể thấy rằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
năm 1968 là một trận đánh chứa đựng nhiều bài học kinh nghiệm đầy xương máu
trên mặt trận quân sự nhưng đồng thời cũng là một trận đánh tác động tới thắng
lợi trên mặt trận ngoại giao ở Pari. Chính Mậu Thân năm 1968 là bài học kinh
cho Quân giải phóng khi mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 sau
này.
Ban Biên tập biên soạn
Nguồn ảnh
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n#/media/File:Tet-Offensive-Map.jpg
2. https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n#/media/File:US_Embassy,_Saigon,_January_1968.jpg
3. https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n#/media/File:Vo_Nguyen_Giap3.jpg
[1]
Trần Thanh Bình (2013), Võ Nguyên Giáp - Hào khí trăm năm, Nhà
xuất bản Trẻ,Thành phố Hồ Chí Minh, tr.305 - 306.
[2] Trần Thanh Bình (2013), Võ Nguyên
Giáp - Hào khí trăm năm, Nhà xuất bản Trẻ,Thành phố Hồ Chí Minh, tr.310.
Nhận xét
Đăng nhận xét