Trong lịch sử Việt Nam
thường nhắc đến Nỏ Liên châu của An Dương Vương hay Thuận Thiên Kiếm của Lê
Thái Tổ. Tuy nhiên có một loại vũ khí ít người biết đến đó là thanh Định Nam
đao của Mạc Thái Tổ Mạc Đăng Dung. Thanh đao này là vũ khí khi ông xông pha trận
mạc cũng như bình định thiên hạ. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, thanh đao hiện
đang được bảo quản tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc tại xã Ngũ Đoan, huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng.
Mạc Đăng Dung, là người
ở huyện Cổ Trai, Nghi Dương, nay là Kiến Thụy, Hải Phòng. Ông sinh ra trong 1
gia đình nghèo, làm nghề đánh cá. Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc
dòng họ Mạc của ông nhưng đa phần các học giả đồng ý với lý giải Mạc Đăng Dung
là con cháu 7 đời của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Thời trai trẻ, Đăng
Dung có sức khỏe nổi trội, có hoài bão, chí lớn nhưng không gặp thời nên hay đi
đánh vật kiếm tiền thưởng sống qua ngày. Cũng chính vì sức khỏe hơn người đã
giúp ông thi đỗ Đệ nhất Đô lực sĩ (hay còn gọi là Võ trạng nguyên), từ đó sự
nghiệp chốn quan trường của ông bắt đầu.
Bắt đầu với thân phận
quân Túc Vệ, rồi được phong làm Đô chỉ huy sứ vệ Thần Vũ, con đường công danh của
Mạc Đăng Dung lên nhanh như diều gặp gió, từng giữ chức phó tướng Tả đô đốc, trấn
thủ Sơn Nam hay được phong tước Vũ Xuyên Bá khi chỉ mới gần 30 tuổi.Năm 1527, Mạc
Đăng Dung phế ngôi Lê Cung Hoàng lập nên triều Mạc, lấy niên hiệu Minh Đức. Ở
ngôi đến năm 1529, học theo nhà Trần ông nhường ngôi cho con trai trưởng là Mạc
Đăng Doanh, lui về làm Thái thượng hoàng. Khi Mạc Thái tổ băng hà vào năm 1541,
thanh long đao được đem về quê hương ông và thờ ở lăng miếu làng Cổ Trai, huyện
Nghi Dương, phủ Kim Môn, trấn Hải Dương (nay là làng Cổ trai, xã Ngũ Đoan, huyện
Kiến Thụy).
Trong suốt cuộc đời
binh nghiệp của mình Định Nam đao đã theo Mạc Thái Tổ rong ruổi khắp sa trường trong
những cuộc chinh chiến chống các thế lực chống đối nhà Mạc. Nhưng thanh đao
cũng có một số phận chìm nổi cũng như giai thoại về nguồn gốc.
Về nguồn gốc trong dân
gian lưu truyền giai thoại sau:
Tương truyền, trước khi
làm quan, Mạc Đăng Dung có đi qua 1 lò rèn nọ, người thợ rèn chính trong đó thấy
qua tướng mạo ông quá đặc biệt, biết rằng sau này sẽ làm nên nghiệp lớn, nhưng
không phải từ con đường học vấn mà chính nhờ nghề binh nghiệp.
Chính vì vậy, người thợ
rèn nọ bèn đúc 1 thanh long đao tặng Đăng Dung và nói: "Cơ nghiệp sẽ dựng
nên từ đây, cây đao này chỉ dành cho người có duyên, dùng nó sẽ làm nên sự lớn",
điều đó như 1 lời tiên đoán ông sẽ lập nên triều đại mới chính nhờ thanh đao
này.
Về số phận của thanh
đao sau khi Mạc Thái Tổ qua đời:
Năm 1592, khi nhà Mạc
thất thủ ở Thăng Long, cháu 4 đời của Mạc Thái tổ là Mạc Đăng Thuận coi giữ
lăng miếu, đã giả làm nhà buôn, mang theo long đao xuống thuyền rời Đồ Sơn.
Đoàn thuyền tiến về phía Nam, vào vùng cửa sông Hồng, đến cửa Lạn Môn thì dừng
lại và định cư ở vùng đất Kiên Lao (Nam Định). Mạc Đăng Thuận cùng gia quyến đổi
sang họ Phạm để tránh bị nhà Trịnh truy sát diệt vong, nhưng vẫn giữ lại bộ thảo
đầu của chữ “Mạc” để làm tín hiệu cho con cháu đời sau nhận ra nhau.
Trải qua bốn đời ở vùng
Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc có sự phân chi. Ông Phạm Công Úc được giao mang
đại long đao về định cư ở vùng Ngọc Tỉnh và thờ ở từ đường chi họ Phạm gốc Mạc.
Theo gia phả dòng họ, dưới thời vua Lê Dụ Tông, hai người con trai của Phạm
Công Úc là Phạm Công Dục và Phạm Công Dắt lên kinh đô thi võ. Hai ông đã xin
cha được làm lễ rước thanh long đao để cầu xin anh linh tiên đế và linh khí bảo
đao phù trợ. Khoa thi ấy, cả hai ông đều đỗ võ quan và được triều đình tuyển dụng.
Ông Phạm Công Dục theo vua Lê dẹp loạn, được thăng tới chức Đô thống phủ Tả đô
đốc Kiệt trung tướng quân, tước Dục Trung hầu. Ông Phạm Công Dắt được phong chức
Quản Hữu chấn cơ Tín nghĩa Đô úy, tước Phạm Sứ hầu. Kể từ đó con cháu đều hiển
vinh.
Đến triều vua Minh Mạng
(1821), Phan Bá Vành khởi binh, chống lại triều đình muốn dùng long đao của Mạc
Thái Tổ làm linh khí trên chiến trường. Biết ý muốn đó, dòng họ Phạm gốc Mạc ở
Ngọc Tỉnh đã chôn giấu Định Nam đao quyết không để mất. Trải qua những thăm trầm
của lịch sử, dấu tích nơi chôn giấu không còn, thanh long đao tưởng như đã mất,
nhưng lại được tìm thấy khi đào hồ bán nguyệt.
Theo các nhà nghiên cứu
về vũ khí, thanh đao chưa han rỉ ban đầu có thể nặng đến 30 kg. Hiện nay thanh
đao dài 2,55m và nặng 25,6kg. Cán làm bằng sắt rỗng. Dọc sống đao có nhiều nét
hoa văn rất lạ đến nay vẫn chưa lý giải được. Một hình đầu rồng bằng đồng thau
đang há miệng nuốt lấy lưỡi đao.
Hiện nay, Định Nam Đao
là 1 trong 2 thanh đao duy nhất còn tồn tại mà từng được 1 vị hoàng đế châu Á sử
dụng. Thanh đao còn lại là của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn
nhà Bắc Tống,
Định Nam Đao không chỉ
là bảo vật của dòng họ Mạc (hoặc Phạm gốc Mạc) mà nó còn là 1 hiện vật vô giá đối
với lịch sử nước ta. Sau nhiều năm chinh chiến rồi lưu lạc, thanh đao thấm đẫm
tinh thần và ý chí của 1 vị vua Đại Việt vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Người biên tập: Nguyễn
An
Nhận xét
Đăng nhận xét