CÁCH
MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
Thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945
không chỉ mang lại cho dân tộc Việt Nam ý chí quyết tâm dành được độc lập với sự
lãnh đạo của Đảng, mà còn là thắng lợi của cách mạng giành chính quyền chỉ diễn
ra trong thời gian ngắn nhất, tổn thất nhỏ nhất, nhưng thành công lớn nhất, triệt
để nhất trong lịch sử nhân loại.
Bối cảnh lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh
lại phe Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô.
Sau có Mỹ
và nhiều nước nữa tham chiến (trong đó có Việt Minh, Lào, Campuchia ở Đông
Dương).
Vào tháng 9 năm 1940,
ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Vichy của Pháp,
vì đã đầu hàng Đức Quốc xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ
bộ vào Bắc Kỳ.
Vào tháng 5 năm 1941, các lực lượng ái
quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh dẫn đầu, tập
hợp tại một địa điểm gần biên giới Việt - Trung, tham gia một tổ chức đứng về
phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam, gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh,
thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ
kiểm soát ở biên giới Việt - Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp
thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
(một trong những tiền thân của Quân đội Nhân
dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến
khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh,
chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc.
Diễn biến của cuộc cách mạng
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày
13 tháng 8 năm 1945, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh với sự tham gia của Trường
Chinh (chủ tọa), Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng đã nhận định rằng, điều kiện
cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa. Ủy
ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập gồm: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần
Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Tuy nhiên, nhiều nơi nổi dậy khi chưa
nhận được chỉ thị của Trung ương. Một đoàn cán bộ gồm Trần Huy Liệu, Nguyễn
Lương Bằng, Huy Cận vào Huế, và Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập
vào Sài Gòn để đôn đốc khởi nghĩa.
Ngày 14 tháng 8, một số cán bộ Đảng Cộng
sản và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình
hiện tại và chỉ thị "Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi
nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra các xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như
Thanh Hóa, Thái Bình,...
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải
phóng quân của Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang)
kéo về bao vây, tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.
Các cuộc khởi nghĩa dành lại độc lập:
Sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người
dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát
Lớn Hà Nội.
Hình 1. Nhân dân Hà Nội chiếm Bắc Bộ phủ ngày 19/8/1945.
Hình 2. Quang cảnh mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần
Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt quốc dân, nhưng bởi sự ủng hộ của người dân,
cuộc mít tinh đã biến trở thành cuộc tuần hành ủng hộ lực lượng Việt Minh. Ngày
23/8, khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi. Chỉ đạo khởi nghĩa có Nguyễn Chí Thanh
và Tố Hữu. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp của lực lượng Thanh niên tiền tuyến
(Thanh niên Phan Anh), đây vốn là bộ phận bảo vệ trị an của chính phủ Trần Trọng
Kim nhưng khi cách mạng nổ ra đã quay sang ủng hộ Việt Minh.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh và
Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại
Sài Gòn (nơi chịu sự cai trị trực tiếp của Nhật). Chỉ đạo nổi dậy ở nội thành
là nhóm Việt Minh Tiền phong do Trần Văn Giàu chỉ đạo.
Đến ngày 28 tháng 8, Việt Minh giành được
chính quyền toàn quốc. Hai tỉnh giành được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và
Đồng Nai Thượng.
Sau khi Việt Minh giành chính quyền tại
Hà Nội và nhiều nơi khác, Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim ở Huế nộp
đơn xin từ chức.
Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam
không có phản ứng đáng kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật
đã tuyên bố đầu hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, mặt
khác vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề
nghị của Tư lệnh quân đội Nhật về việc đem quân Nhật chống lại Việt Minh.
Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã
giành được chính quyền trên khắp cả nước.
Hình 3. Không gian tái hiện cảnh vua Bảo Đại thoái vị
Trước ngày mùng 2 tháng 9:
Cuối tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh lo
chuyện tác động đến các lãnh đạo của phe Đồng Minh theo hướng công nhận nền độc
lập của Việt Nam, cũng như chuyện ông phải nắm quyền lực nhà nước hoặc phải tự
thể hiện bản thân như là biểu tượng dân tộc của sự thống nhất và tự quyết.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường
Ba Đình (Hà Nội). Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố sự
khai sinh của một nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn,
dựa theo bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu: Tất cả mọi người sinh
ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Hồ Chí Minh cũng trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp 1791
khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Hình 4. Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945
Ý nghĩa của cuộc cách mạng tháng
8/1945
Cách mạng tháng 8/1945 là bước ngoặt có
ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc giành chính
quyền về tay nhân dân, chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc
hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ trở thành những người yêu nước làm chủ vận mệnh của mình sẵn sàng
chiến đấu để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ.
Trường Cao đẳng Y tế Bình Dương.
Nhận xét
Đăng nhận xét