Trong
thời kỳ diễn ra “Chiến tranh lạnh” giữa Mỹ và Liên Xô (1947 - 1991), thế giới
luôn nằm trong tình trạng căng thẳng, khu vực nào có sự can thiệp của Mỹ và
Liên Xô thì nơi đó trở thành tâm điểm của cả thế giới. Việt Nam cũng là một
trong những tâm điểm của thế giới trong thời kỳ “Chiến tranh lạnh” với cuộc Chiến
tranh Việt Nam diễn ra từ năm 1954 đến năm 1975.
Trong
phạm vi bài viết này, tôi chỉ phân tích việc Việt Nam có nguy cơ trở thành lò lửa
của chiến tranh thế giới thứ 3 trong năm 1965 và nguyên nhân xảy ra vấn đề đó.
Trước
khi bước vào phân tích vấn đề cụ thể, tôi xin trình bày một số khái niệm có
liên quan:
Lò lửa là nơi chứa đựng những mâu thuẫn
không thể điều hòa được và chỉ cần có mồi lửa nhỏ là nó bùng lên. Biểu hiện của
lò lửa là việc các hoạt động quân sự được tiến hành mau lẹ, các mâu thuẫn được
giải quyết bằng bạo lực.
Chiến tranh thế giới là cuộc chiến có quy mô rộng lớn bao gồm tất cả châu
lục (trừ châu
Nam cực) và có rất nhiều nước tham gia. Đây là kiểu chiến tranh tốn kém nhất và thiệt
hại nhiều về nhân mạng,.... Trong lịch sử nhân loại, thế giới đã trải qua 2 cuộc
chiến tranh thế giới là chiến tranh thế giới thứ 1 và chiến tranh thế giới 2.
Khi xem xét tình hình
thế giới cung như trong nước tại thời điểm năm 1965, có thể khẳng định rằng Việt Nam có nguy cơ trở
thành lò lửa của chiến
tranh thế giới thứ 3.
Sở dĩ, Việt Nam có nguy cơ trên biểu hiện qua các nguyên
nhân sau:
Một
là, sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam.
Quá
trình leo thang chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam từ giữa năm 1965 khiến chiến sự ở
đây trở thành tâm điểm nóng nhất của thế giới. Cả thế giới băn khoăn, lo ngại
khi nước Mỹ tuyên chiến với một quốc gia nhỏ bé cách xa hàng vạn dặm và hồi hộp
với sức chịu đựng của nhân dân Việt Nam trước “cơn phẫn nộ của tên đế quốc sen
đầm”. Sức mạnh Hải - Lục - Không quân của Mỹ và sức mạnh tiềm tàng của cả nước
Mỹ được huy động vào việc đánh Việt Nam ở cả miền Nam lẫn miền Bắc.
Mục tiêu lớn
nhất của Mỹ lúc này là dùng lực lượng lớn quân viễn chinh phản công nhanh các lực
lượng cách mạng miền Nam (chủ yếu là tìm diệt lực lượng vũ trang Quân giải
phóng), kết hợp đánh phá miền Bắc gây sức ép buộc đối phương phải kết thúc chiến
tranh theo điều kiện của Mỹ[…]. Tổng thống L.Jonhson và giới hiếu chiến Mỹ hy
vọng xuất con bài quân viễn chinh sẽ ngăn chặn được chiều hướng thua, giành lại
quyền chủ động chiến trường, chuyển bại thành thắng. Đạo quân chỉ biết đánh thắng
chưa biết hòa, chưa chịu thua ai, từng xoay chuyển tình thế ở Triều Tiên năm
1950, vừa đánh nhanh thắng gọn ở Dominica, nhất định sẽ giành thắng lợi quyết định
về chiến lược cho chiến tranh Việt Nam, đảo lộn thế cờ ở miền Nam.[1]
Tình
hình đó đã tạo ra sự khiêu khích đối với tất cả các xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, các nước này đã nhiệt tình ủng hộ cách mạng Việt Nam, quyết không thể ngồi
yên trước những sự việc đang xảy ra ở Việt Nam. Biểu hiện của sự ủng hộ đó được
thể hiện qua các việc làm và lời hứa, cụ thể như sau:
Liên
Xô tuyên bố: ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, coi việc viện trợ cho Việt Nam là mệnh lệnh
của trái tim.
Trung
Quốc cũng tuyên bố: 750 triệu nhân dân Trung Hoa sẽ đứng đằng sau nhân dân Việt
Nam chống Mỹ.
Cuba
tuyên bố: vì Việt Nam, Cuba sẽ hy sinh cả máu của mình và sẵn sàng đem quân
sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ.
Các nước
đang đấu tranh giải phóng dân tộc ở Á – Phi – Mỹ Latinh ủng hộ nhân dân Việt
Nam chống Mỹ, nhưng lo sợ cho sức chịu đựng của nhân dân Việt Nam…[2]
Hai
là, Mỹ lôi kéo các nước Đồng minh tham chiến, chủ yếu là các Đồng minh trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương như Hàn Quốc, Thái Lan, New Zealand, Australia và
Philippines. Biểu hiện như sau:
Đến cuối
năm 1965, đạo quân viễn chinh có mặt ở miền Nam là 184.314 lính Mỹ, 20.500 lính
Nam Triều Tiên (Hàn Quốc), Úc (Australia), Tân Tây Lan (New Zealand). Toàn bộ lực
lượng quân sự Mỹ - chư hầu (quân 5 nước Đồng minh của Mỹ) – ngụy Nam Việt Nam (quân
đội Sài Gòn) sẽ đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Cơ quan MACV và do Bộ Tư lệnh
Mỹ ở Thái Bình Dương trực tiếp điều hành.
Chúng
tung vào miền Nam hầu hết các đơn vị tinh nhuệ, sử dụng cả lực lượng không quân
chiến lược, mở rộng chiến tranh không quân và hải quân ra cả miền Bắc Việt Nam,
Lào, Campuchia. Quân Mỹ - chư hầu làm lực lượng nòng cốt để phản công tìm diệt,
quân ngụy làm nhiệm vụ chủ yếu là bình định. Miền Bắc sẽ phải chống đỡ và không
thể chi viện được cho miền Nam. Quân giải phóng miền Nam sẽ phải lùi về thế
phòng ngự với chiến tranh kiểu du kích, chiến trường miền Nam sẽ bị chia cắt và
Mỹ - ngụy - chư hầu hy vọng sẽ “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”.[3]
Ba là,
xét về tương quan lực lượng có sự chênh lệch lớn.
Trong
khi Mỹ có trong tay lực lượng quân sự hùng hậu cùng với những vũ khí tối tân,
hiện đại thì Việt Nam lực lượng ít hơn nhưng được các nước xã hội chủ nghĩa sẵn
sàng đem quân giúp.
Như vậy,
với 3 nguyên nhân trên đã chứng tỏ trong năm 1965 Việt Nam có nguy cơ trở thành
lò lửa của chiến tranh thế giới thứ 3. Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ 3 đã
không diễn ra mặc dù Việt Nam có nguy cơ chiến tranh rất lớn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Hà Minh Hồng (2005), Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858 - 1975),
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hồ Sỹ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn
Sen (1998), Lịch sử Việt Nam 1945 - 1975,
Tủ sách Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Võ
Văn Sen (Chủ biên - 2011) - Hà Minh Hồng, Lịch
sử Việt Nam (1954 - 1975), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
Người biên tập: Đỗ Xuân Giang
[1] Hồ Sỹ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn
Sen (1998), Lịch sử Việt Nam 1945 - 1975,
Tủ sách Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, Thành
phố Hồ Chí Minh, tr.207 - 208.
[2]
Hà Minh Hồng (2005), Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858 - 1975),
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.197 - 198.
[3]
Hồ Sỹ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ
Văn Sen (1998), Lịch sử Việt Nam 1945 -
1975, Tủ sách Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau,
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.209.
Nhận xét
Đăng nhận xét