Hình ảnh gốm Chu Đậu trong chương trình Ngày trở về: Giong buồm đón gió
năm 2019.
năm 2019.
“Chu Đậu, theo nghĩa Hán là bến thuyền đỗ. Vào thế kỷ XV,
Chu Đậu là một xã nhỏ thuộc huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách, trấn Hải Dương, nằm
liền kề với tả ngạn sông Thái Bình, một nhánh của sông Lục Đầu, có thể về Thăng
Long, ra biển, rất thuận lợi trong giao thương, buôn bán”.[1]
Chu Đậu là dòng gốm cao cấp, được sử dụng nhiều trong hoàng thành Thăng Long thế
kỉ XV. Gốm Chu Đậu thịnh phát nhất vào thế kỉ XV – thế kỉ XVI, nhưng đến thế kỉ
XVII thì bị thất truyền do các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến.
Thế nhưng điều kì lạ
là nó được tìm thấy ở rất nhiều nơi trên thế giới, chứng tỏ một có một thời kì
hoàng kim của gốm Chu Đậu với một tầm ảnh hưởng không nhỏ. Một phần lớn được
tìm thấy trên xác những con tàu trôi dạt ngoài biển, sau đó được các nhà sưu tập
đồ cổ mua lại và định giá trị. Bảo tàng Hoàng gia Thổ Nhĩ Kì hiện đang giữ một
chiếc bình cực kì quý giá thuộc dòng gốm Chu Đậu Việt Nam, và đây là chiếc bình
độc nhất, không thể tìm thấy thêm một cái thứ hai nào nữa. Chiếc bình được xem
như bảo vật của ngành gốm thế giới này lúc đầu được cho là của Trung Quốc[2],
nhưng qua các cuộc nghiên cứu, điều tra gốc tích cả thế giới phải ngỡ ngàng -
đây chính là sản phẩm của bàn tay nghệ nhân Việt Nam.
Hình 1, 2: Bình gốm Chu Đậu
- Bảo tàng Topkapi Saray (Thổ Nhĩ Kì)
Gốm Chu Đậu nổi tiếng
với những tạo hình tự nhiên, kiểu dáng thanh thoát, đường nét cân xứng, hài hòa
và sắc sảo. Các hoa văn trang trí có cả chìm và nổi, lấy cảm hứng từ thiên
nhiên như: tre trúc, dương liễu, hoa cúc, hoa sen cách điệu, địa lan, cổ tùng,
mây, núi, sóng, nước,…; thần thú như: rồng, phượng, hạc, kê,… ngoài ra còn có
chim, cò, ngựa, cá,… Nét vẽ phóng khoáng, trữ tình và trau chuốt, có thanh có đậm,
có nhỏ có lớn, vừa cho thấy sự tinh tế của nghệ nhân, vừa toát lên khí chất
thanh cao của nghệ thuật làm gốm.
Phần lớn men được sử
dụng là men ngọc, men trắng và men lam, lớp men trong và mỏng tạo độ sáng cho nền
gốm và độ thâm cốt cho mực vẽ. Chính vì vậy càng lâu, càng cổ bao nhiêu thì Chu
Đậu lại càng đẹp, càng giá trị bấy nhiêu. Xương gốm cứng nhưng nhẹ, thành gốm cứng
nhưng mỏng, ví như người con gái thanh mảnh, duyên dáng nhưng vô cùng rắn rỏi
và kiên cường. Quả thực xứng danh
“Đệ nhất gốm Chu Đậu”.
Nếu so sánh với gốm
men xanh trắng của Trung Quốc (như Nguyên, Minh, Khang Hy, Thanh Hoa,…) thì gốm
Chu Đậu hoàn toàn không kém cạnh về chất lượng và mức độ tinh xảo. Tất nhiên
không thể so sánh về số lượng và sự phong phú của chất liệu, kiểu dáng.
Hình
3, 4: Ấm Chu Đậu hình phượng, kê
Hình 5, 6: Ấm Chu Đậu
hình rồng.
Hình 7: Chiếc bình Chu Đậu
được mệnh danh là “Chiếc bình quốc bảo”
Hình 8, 9: Lọ cắm hoa và
hũ đựng trà Chu Đậu
Hình 10, 11: Dĩa, chén
Chu Đậu
Hình 12: Ang Chu Đậu
*(Do bảo tàng Lịch sử không cho
phép chụp ảnh hiện vật nên tất cả các hình ảnh được sử dụng trong bài đều lấy từ
nguồn Internet)
Tóm lại dòng gốm Chu Đậu là đỉnh cao của nghệ thuật gốm sứ Việt Nam, trải
qua bao thăng trầm của thời gian, của chiến tranh, từ sự phát triển rực rỡ,
hưng thịnh rồi lại lụi tàn, mai một, nhưng Chu Đậu vẫn được cả thế giới biết đến
và ngưỡng mộ. Qua đó đã một phần tái hiện lại thời kì mà nghệ thuật làm gốm bằng
tay của chúng ta đạt đến trình độ tinh tế và sắc sảo, sánh ngang với những nền
gốm nghệ thuật nổi tiếng.
Từng là một người trẻ nông cạn với lối nghĩ “Gừng nhà không cay, Bụt nhà
không thiêng”, cho đến khi có cơ hội tiếp xúc với những giá trị truyền thống,
tôi mới kinh ngạc nhận ra những nét đẹp thiêng liêng của dân tộc mà trước giờ
mình lãng quên. Nghệ thuật làm gốm là một phần trong linh hồn dân tộc ấy, những
bàn tay tài hoa, những tâm hồn nghệ sĩ… sẽ không bao giờ nó sống lại một lần nữa
theo cách mà nó đã từng sống. Nhưng ít nhất những người trẻ cần thêm nhiều sự
hiểu biết để trân quý hơn những giá trị cần được bảo tồn.
Người viết: Lê Minh Thuỳ
[1] Thạc sĩ Nguyễn Anh Tuấn
(Hội viên Hội Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh), bài viết Gốm Chu Đậu Việt Nam, trong hội thảo: “Gốm Đồng Nai & các vùng
phụ cận, giá trị truyền thống & vấn đề phát triển”.
[2] Một phần vì chữ viết trên
bình là chữ Hán, một phần vì mức độ tinh xảo của nó.
Nhận xét
Đăng nhận xét