Nguyễn Chí Thanh sinh ra và lớn lên trên quê
hương Thừa Thiên Huế, vùng đất kiên cường, giàu truyền thống văn hóa, truyền
thống yêu nước và cách mạng. Được nuôi dưỡng, giáo dục và tiếp thu truyền thống
lịch sử hào hùng của quê hương, đất nước, tận mắt chứng kiến nỗi thống khổ của
nhân dân dưới ách áp bức thống trị của thực dân, phong kiến, ông đã sớm hình
thành tư tưởng yêu nước và tinh thần cách mạng.
Năm 1934, khi mới vừa 20 tuổi, Nguyễn Chí Thanh đã tham gia cách
mạng, hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng
ta phát động và lãnh đạo. Dưới sự chỉ đạo của ông, phong trào đấu tranh cách
mạng của nhân dân Thừa Thiên chống ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và
phong kiến Nam triều nổ ra mạnh mẽ. Ông đã dẫn dắt và khơi dậy ý chí cách mạng
quật cường của đồng bào ta, tạo nên sự lớn mạnh của phong trào cách mạng trên
quê hương Thừa Thiên- Huế, làm kẻ thù hoảng sợ. Vì vậy, người chiến sĩ cộng sản
Nguyễn Chí Thanh trở thành mục tiêu săn lùng của bọn thực dân.
Tháng 7-1939, ông bị địch
bắt giam ở lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi đày ở các nhà tù Lao Bảo, Buôn Ma
Thuột. Trong nhà tù đế quốc, Nguyễn Chí Thanh luôn thể hiện tinh thần bất
khuất, kiên cường, giữ vững khí tiết của người cộng sản.
Tháng 2-1942, ông vượt ngục thành công, trở về
tiếp tục hoạt động cách mạng và được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời của tỉnh
Thừa Thiên- Huế. Dưới sự chỉ đạo của ông, hệ thống cơ sở cách mạng, các đoàn
thể Việt Minh, lực lượng tự vệ được xây dựng và phát triển mạnh mẽ ở Thừa
Thiên- Huế. Đây là sự chuẩn bị hết sức quan trọng cho cuộc Tổng Khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945, dù sau đó vào tháng 7-1943, Nguyễn Chí Thanh lại bị địch
bắt, bị giam giữ ở nhà tù Buôn Ma Thuột. Cho đến khi Nhật đảo chính Pháp, tháng
3-1945, ông mới được thả tự do.
Tháng 8-1945, đại diện cho tổ chức Đảng ở Trung Kỳ, Nguyễn Chí
Thanh dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào và được bầu làm Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Trong những
năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ông được phân công làm Bí thư
Tỉnh ủy Thừa Thiên, kiêm Bí thư Phân khu ủy Bình -Trị - Thiên. Khi đó, tình
hình chiến sự tại mặt trận này vô cùng ác liệt, lực lượng của ta bị tổn thất
nghiêm trọng, mặt trận Huế bị địch phá vỡ, nhiều cơ quan, tổ chức đảng trong
tỉnh bị thiệt hại nặng nề, một số cán bộ, đảng viên tỏ ra bi quan, một bộ phận quần
chúng hoang mang lo sợ. Để động viên tinh thần của nhân dân, củng cố ý chí
quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, bộ đội ta, Nguyễn Chí Thanh đã khẳng định:
"Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có
lòng tin của dân là có tất cả. Vì vậy chúng ta không được chạy dài. Chúng ta
phải trở về với dân, chúng ta nhất định thắng!".
Năm 1948, Nguyễn Chí Thanh được Đảng giao trọng trách cương vị
Bí thư Liên khu ủy Khu 4. Đến năm 1950, ông được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
giao làm Phó bí thư Tổng Quân ủy, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân
dân Việt Nam. Trên cương vị công tác mới, ông đã mang hết tâm lực của mình,
cùng với tập thể Tổng Quân ủy lãnh đạo xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, bồi dưỡng và phát huy bản chất cách mạng của quân đội
ta, xây dựng nền nếp công tác Đảng, công tác chính trị, nâng cao sức mạnh chiến
đấu của lực lượng vũ trang nhân dân ta; thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng, giáo
dục, rèn luyện một đội ngũ cán bộ quân đội ngày càng vững mạnh, chính quy.
Hòa bình lập lại trên miền Bắc, được Đảng phân công phụ trách
mặt trận sản xuất nông nghiệp, Nguyễn Chí Thanh đã sâu sát cơ sở, nắm bắt tình
hình, lắng nghe, tham khảo ý kiến các nhà khoa học, xác định phương hướng mở
rộng sản xuất, phá "xiềng ba sào", phát động các phong trào thi đua
trong nông nghiệp. Ông để lại những ấn tượng tốt đẹp cho cán bộ và nhân dân về
tác phong làm việc sâu sát, khoa học, dân chủ, đắm mình với nhân dân.
Năm 1964 - 1965, trong bối cảnh đế quốc Mỹ đưa không quân và hải
quân đánh phá miền Bắc, đưa quân đội trực tiếp vào xâm lược miền Nam, Trung
ương Đảng và Bộ Chính trị điều động Nguyễn
Chí Thanh vào chiến trường đảm nhiệm cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam,
trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với tác phong sâu sát, cụ
thể, ông đã đến những địa bàn trọng điểm
để nắm tình hình, nghiên cứu phương án tác chiến phù hợp, đề ra chiến lược quân
sự, xác định tư tưởng kiên quyết tiến công, chủ động tiến công, liên tục tiến
công. Khẩu hiệu nổi tiếng: "Bám thắt lưng địch mà đánh" và chủ trương
xây dựng các "vành đai diệt Mỹ", đã thể hiện trí tuệ và tài thao lược
đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam...
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mất ngày 6/7/1967 tại Hà Nội trong
một cơn đau tim.
Sau ngày Đại tướng qua đời (7-7-1967), nhà thơ Tố Hữu đã viết
nên bài thơ "Một con người". Sau đây là nội dung bài thơ:
Một con người
Anh
Thanh ơi!
Anh mất thật rồi sao ?
Mới hôm qua câu chuyện ra vào
Anh hăm hở như cờ lên mặt trận
Giọng say sưa như gió thồi ào ào...
Anh mất thật rồi sao ?
Mới hôm qua câu chuyện ra vào
Anh hăm hở như cờ lên mặt trận
Giọng say sưa như gió thồi ào ào...
Tưởng lại đưa Anh ra chiến trường
Đường về, vó ngựa thắng dây cương
Ngày mai... Ai biết chiều nay phải
Vĩnh biệt Anh nằm dưới gốc dương!
Đường về, vó ngựa thắng dây cương
Ngày mai... Ai biết chiều nay phải
Vĩnh biệt Anh nằm dưới gốc dương!
Có lẽ trong Anh nóng quá chừng
Đêm ngày quên gánh nặng trên lưng
Ra đi... bao nỗi mừng vui ấy
Ngập trái tim Anh... mạch máu ngừng!
Đêm ngày quên gánh nặng trên lưng
Ra đi... bao nỗi mừng vui ấy
Ngập trái tim Anh... mạch máu ngừng!
Tôi chẳng buồn đâu, chỉ nhớ Anh
Mắt không muốn khóc, lệ vòng quanh
Nước non đau xót như lòng mẹ
Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh!
Mắt không muốn khóc, lệ vòng quanh
Nước non đau xót như lòng mẹ
Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh!
Cứ
nghĩ như Anh vẫn sống hoài
Mặt hiền như ruộng lúa nương khoai
Hai con mắt đỏ, bừng như lửa
Cái miệng cười tươi, sáng dặm dài...
Mặt hiền như ruộng lúa nương khoai
Hai con mắt đỏ, bừng như lửa
Cái miệng cười tươi, sáng dặm dài...
Ở đâu nghèo đói, gọi xung phong
Lon nước, mo cơm lội khắp đồng
Ở đâu tiền tuyến, kêu Anh đến
Tay súng tay cờ, lại tiến công!
Lon nước, mo cơm lội khắp đồng
Ở đâu tiền tuyến, kêu Anh đến
Tay súng tay cờ, lại tiến công!
Anh vẫn là Anh những sớm trưa
Của quê hương, dãi nắng dầm mưa
Đẩy cày cách mạng, vai không mỏi!
Gặt mấy mùa vui, vẫn muối dưa...
Của quê hương, dãi nắng dầm mưa
Đẩy cày cách mạng, vai không mỏi!
Gặt mấy mùa vui, vẫn muối dưa...
Ôi! Sống như Anh, sống trọn đời
Sáng trong như ngọc, một con Người!
Thanh ơi! Anh mất rồi chăng đấy ?
Cứ thấy như Anh nở miệng cười!
Sáng trong như ngọc, một con Người!
Thanh ơi! Anh mất rồi chăng đấy ?
Cứ thấy như Anh nở miệng cười!
Người biên tập: Đỗ Xuân Giang
Nguồn:
Nhận xét
Đăng nhận xét