Sông Bạch Đằng và những cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta


Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Từ thuở ngàn xưa nơi địa đầu Đại Việt, Bạch Đằng Giang (Sông Bạch Đằng) là cái tên kinh hồn, bạt vía với người phương Bắc. Nơi đây là cửa tử của với hàng vạn quân Nam Hán, là tử địa với Ô Mã Nhi, là mồ chôn của những kẻ "bất khả chiến bại" nhà Nguyên. 
Vậy, sông Bạch Đằng có địa hình như thế nào, mà lại được các tướng lĩnh lựa chọn nơi đây đánh giặc và họ đã “bày binh bố trận” ra sao?
Theo GS Đào Duy Anh, dòng sông Chanh 
là sông Bạch Đằng năm xưa. 
Ảnh: baoquangninh.com.vn
Sông Bạch Đằng chảy giữa hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40km, cách Vạn Kiếp – nơi đóng quân của Thoát Hoan – hơn 30km theo ngược dòng sông Kinh Thầy. Nước sông Bạch Đằng hàng ngày theo thủy triều lên xuống. Khi triều lên cao, mặt sông ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1.200m. Dòng sông đã rộng lại sâu, nơi sâu nhất đến 16m, trung bình giữa sông cũng sâu từ 8m đến 11m.
 Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu dãy núi Tràng Kênh, sông Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung các dòng nước của các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Gia Đước, sông Thải, sông Giá bên hữu ngạn đổ về. Sông Chanh, sông Kênh (cửa sông này ngày nay đã bị lấp) và sông Rút (còn gọi là sông Nam) là chi lưu bên tả ngạn Bạch Đằng chia bớt nước chảy ra Vịnh Hạ Long. Một khúc sông không dài quá 5km mà có 5 dòng nước đổ về và có 3 nhánh sông phụ đưa nước ra biển. Đó là hình thế của thượng lưu Bạch Đằng.[1]
Theo dòng thời gian lịch sử, trong vòng mấy trăm năm, ở đây trở thành chiến địa là mồ chôn của biết bao quân xâm lược phương Bắc. 
Mô hình bãi cọc trên sông Bạch Đằng.
Khi quân Nam Hán chuẩn bị tiến sang theo lời cầu viện của Kiều Công Tiễn, hòng cướp nước ta thêm một lần nữa. Năm 938, cuộc kháng chiến do Ngô Quyền lãnh đạo đã từng bước khẩn trương chuẩn bị. Ông nói: "Hoằng Tháo là một đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. 
Quân ta lấy sức còn khoẻ địch với quân mỏi mệt tất phá được . Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền , ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọc đầu bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chúng chạy thoát''. 
Kế hoạch của Ngô Quyền là tập trung lực lượng tiêu diệt thật nhanh gọn, triệt để đội quân xâm lược Nam Hán ở ngay địa đầu Tổ quốc bằng một trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng. Ông chọn vùng hạ lưu và cửa biển Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến. Tất cả các nguồn thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc đều chép thống nhất với Đại Việt sử ký toàn thư: "Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển".
Chúng ta thấy rằng, thế trận của Ngô Quyền là thế trận triệt để lợi dụng địa hình thiên nhiên phức tạp ở vùng cửa biển Bạch Đằng (gồm sông nước, cồn gò, dải chắn, bãi bồi, rừng sú vẹt, đầm lầy, kênh rạch chằng chịt và các làng xã ven sông), kết hợp với bãi cọc là bãi chướng ngại nhân tạo, làm tăng lên sức mạnh chiến đấu của quân dân ta và dồn quân địch vào thế bất ngờ, bị động. Thế trận của ông là thế trận phối hợp chiến đấu chặt chẽ giữa quân thủy, quân bộ, giữa quân đội chủ lực với lực lượng vũ trang của quần chúng và sự tham gia phục vụ của đông đảo nhân dân yêu nước. 
Thế trận của Ngô Quyền nhằm chặn đường, bao vây và tiêu diệt triệt để quân địch ở địa đầu Tổ quốc. Đây cũng là thế trận tiêu diệt chiến quy mô lớn, chặt chẽ, tiêu biểu cho ý chí của cả dân tộc, không chỉ đánh bại kẻ địch mà còn chặn đường rút lui, tiêu diệt và phá tan mưu đồ xâm lược của chúng.[2] Và kết quả đạt được là sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền. Nước ta thoát khỏi nghìn năm bắc thuộc.
Cuộc kháng chiến chống quân Tống do Lê Hoàn lãnh đạo năm 981 cũng diễn ra trên dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ năm xưa. Trong bối cảnh năm đó, nước ta mới độc lập và thống nhất trong thời gian ngắn, Kinh đô mang tên Hoa Lư, Quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lên ngôi lập ra nhà Lê (tiền Lê), kế thừa và phát huy những di sản của tiền triều (nhà Đinh). Lợi dụng tình hình rối ren của phương Nam lúc bấy giờ quân Tống lại mưu toan xâm lược, thâu tóm nước ta thêm một lần nữa, tiến thẳng vào Hoa Lư, đặt nền đô hộ.
 Đường thuỷ vào Hoa Lư lúc bấy giờ, ta có hai tuyến đường quan trọng: đó là đường vào Cửa Liêu qua sông Đáy và đường vào cửa Thái Bình qua sông Luộc. Vì hai tuyến đường thuỷ này có các cửa biển sâu, sông rộng ít quanh co, độ đường vừa phải phù hợp cho thuyền lớn ra vào dễ dàng.
 Sách Sử học bị khảo của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng viết về tuyến sông này như sau: “Xét ở cựu sử năm thứ hai niên hiệu Hưng Thống thời Lê Đại Hành (990), sứ nhà Tống là Tống Cảo đến sông Bạch Đằng, theo nước triều ven biển đi đến Trường Châu, vua Đại Hành ra tận ngoài ô đón, ghìm ngựa cùng sứ đều đi. Xét Lê đóng đô ở Hoa Lư (nay là huyện Gia Viễn, Ninh Bình), thì thuở ấy sứ nhà Tống đến sông Bạch Đằng (thuộc huyện Thuỷ Đường, Hải Dương) phải theo ven biển đi vào sông Tranh (huyện Vĩnh Lại), rồi đi suốt sông Luộc tỉnh Hưng Yên, xuống sông Châu Cầu huyện Lý Nhân, mới đến được kinh thành Hoa Lư”[3] Từ địa thế này, Lê Hoàn đã “biết đắp thành Bình Lỗ phá được giặc Tống!” như lời khen của Trần Hưng Đạo. Vì vua đã dùng nhiều tre gỗ cắm dọc các sông để hạn chế sức mạnh lưu thông tàu thuyền của nhà Tống, tạo điều kiện cho quân ta có đủ thời cơ tập trung tiêu diệt địch.
Lê Hoàn phá Tống năm 981 
Ảnh: nghiencuulichsu.com
Theo kế hoạch hành quân của nhà Tống thì, Bạch Đằng là hợp điểm thứ hai, nơi tập kết quân thuỷ bộ để rồi từ đó chia quân tiến sâu vào chiếm lĩnh Hoa Lư. Trong quá trình tiến quân, tất nhiên thuỷ quân của Hầu Nhân Bảo sẽ đến Bạch Đằng sớm hơn bộ binh của Tôn Toàn Hưng, vì tốc độ hành quân bằng thuyền lúc bấy giờ thường nhanh hơn tốc độ hành quân của bộ binh.
 Nhận rõ vị trí quan trọng của sông Bạch Đằng, Lê Hoàn sớm tổ chức phòng thủ ở đây theo kinh nghiệm của Ngô Quyền nhằm tạo thế phá giặc. Bởi vì:[4] Thuỷ binh Tống đi dài ngày đã mỏi mệt, nhưng quân ta còn dư sức để chờ giặc.  “Dĩ giật đại lao - lấy quân còn sức mà đánh quân mỏi mệt” ắt sẽ giành phần thắng.
Thuỷ binh Hầu Nhân Bảo đến Bạch Đằng còn phải chờ bộ binh tức là lúc thế còn cô, lực còn đơn, ta phải chớp thời cơ ấy mà đánh. Nếu để chậm mấy hôm nữa thì phía Tống có thêm lực lượng bộ binh, ta càng khó chống cự. Và kết quả đã minh chứng cho nhận định ấy của Lê Hoàn. Cuộc kháng chiến thắng lợi do áp dụng, tận dụng đúng địa thế của dòng sông và Bạch Đằng lại một lần nữa trở thành mồ chôn của người phương Bắc.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên diễn ra ba lần (1258, 1285, 1287 – 1288) đã đóng góp cho lịch sử dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược thêm một trang sử hào hùng. Đến lần thứ ba, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược ghi nhận thêm một lần đại bại nữa của quân Nguyên này trên dòng sông Bạch Đằng dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo. 
Quãng sông Bạch Đằng nơi được chọn làm điểm quyết chiến, là một khu vực hiểm yếu, có đủ những điều kiện cần thiết đáp ứng được yêu cầu bố trí 1 trận địa mai phục trên sông với quy mô lớn. Với sông sâu và rộng, rừng núi sát ven bờ, nhiều lạch thoát triều và bãi triều, nhiều nhánh sông đổ vào, nước triều lên xuống rất nhanh. 
Chính vì thế nên trước đây thuyền xuôi Bạch Đằng ra biển gặp khi triều xuống thường phải rẽ theo đường sông Chanh mà ít qua ghềnh Cốc ra cửa Nam Triệu. Sông Chanh, chi lưu lớn của sông Bạch Đằng, chảy qua huyện Yên Hưng, là đường ngắn nhất và là tuyến giao thông đường thủy quan trọng đi ra vịnh Hạ Long ở miền Đông Bắc. Khi chuẩn bị chiến trường, ghềnh Cốc đã khiến Trần Quốc Tuấn phải chú ý. 
Ông lợi dụng địa hình thiên nhiên này, sử dụng ghềnh Cốc như một chiến lũy ngầm, chặn địch lại, tạo điều kiện cho thuyền chiến ta chặn đường tháo chạy của địch ra cửa Nam Triệu. Sau khi trực tiếp xem xét, nghiên cứu kỹ địa hình, Trần Quốc Tuấn chọn vùng thượng lưu sông Bạch Đằng làm trận địa. Để tăng thêm lợi thế của trận địa mai phục, ông kế thừa kế sách của Ngô Quyền và Lê Hoàn trong kháng chiến chống quân Nam Hán (938) và quân Tống (981). Hưng Đạo đại vương cho đóng cọc gỗ nhằm thực hiện ý đồ chiến lược: chặn đứng và tiêu diệt toàn bộ đạo thủy quân địch.[5]
Cọc Bạch Đằng trong trận năm 1288 
Ảnh: anh135689999.violet.vn
Theo kế hoạch của Trần Quốc Tuấn, quân dân ta, đẵn gỗ lim, gỗ tàu trên rừng, đẽo nhọn cắm xuống tạo thành một bãi chướng ngại vật lớn. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm chạy ngang qua sông Bạch Đằng phía dưới của sông Chanh, có thể được lợi dụng như một chướng ngại vật thiên nhiên để phối hợp với bãi cọc, ngăn chận chiến thuyền địch khi nước triều xuống. Thủy quân ta mai phục trong các nhánh sông, vũng sông, trừ sông Đá Bạc được mở rộng cửa cho quân thù tiến vào đất chết. 
Bộ binh tận dụng địa hình dấu quân trong núi đá Tràng Kênh và rừng rậm bên tả ngạn. Đại quân do vua Trần thống lĩnh cũng sẵn sàng tiếp ứng cho trận huyết chiến chiến lược này[6]. Và kết quả, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng đã giành thắng lợi. Quân đội nhà Trần đánh bại hoàn toàn cuộc xâm lược của Mông- Nguyên - một kẻ "bất khả chiến bại" và tàn bạo nhất thế giới lúc bấy giờ để bảo vệ nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ quyền quốc gia của Đại Việt.
Nhận định rõ địa hình, địa thế của dòng sông Bạch Đằng, các cuộc kháng chiến diễn ra tuy trong thời gian khác nhau nhưng đều để lại chiến thắng vẻ vang nơi dòng sông này. Sông Bạch Đằng như minh chứng cho ý chí kiên cường và mưu lược của những anh hùng Đại Việt bảo vệ vững chắc đất nước trước nạn ngoại xâm. 

Quảng trường Khu di tích Bạch Đằng Giang, huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng. 
Ảnh: http://kinhtedoisong.com.vn

Đó chính là những nghệ thuật quân sự bài binh bố trấn trên hình thể dòng sông mà các tướng lĩnh đã tận dụng được. Hiện ở khu vực cửa sông Bạch Đằng có 3 ngôi đền thờ 3 vị anh hùng trên đó là đình Hàng Kênh (Lê Chân, Hải Phòng) thờ Ngô Quyền, đền Vua Lê Đại Hành ở thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đền Trần Hưng Đạo ở phường Yên Giang, (thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh).
Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;
Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.
Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,
Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.
Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,
Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?


Người viết: Trần Hoàng






[1] Ths Nguyễn Thanh Điệp (10/12/2015), Nghệ thuật lựa chọn địa hình và điều kiện khí tượng thủy văn trong trận chiến Bạch Đằng 1288http://tuanbaovannghetphcm.vn, http://tuanbaovannghetphcm.vn/nghe-thuat-lua-chon-dia-hinh-va-dieu-kien-khi-tuong-thuy-van-trong-tran-thuy-chien-bach-dang-1288/
[2] Nhiều tác giả, Giới thiệu sông Bạch Đằng 3 lần chiến thắng quân xâm lược, quangyen.vn, http://quangyen.vn/TinTuc/102-862/song-bach-dang/gioi-thieu-song-bach-dang-3-lan-chien-thang-quan-xam-luoc.htm
[3] Tống sử, Q.254, bản chữ Hán, tr.13.
[4] PGS.TS. Trần Bá Chí (06/09/2013), Lê Đại Hành phá Tống, Nghiencuulichsu.com, https://nghiencuulichsu.com/2013/09/06/le-dai-hanh-pha-tong/
[5] ThS Nguyễn Thanh Điệp (10/12/2015), Nghệ thuật lựa chọn địa hình và điều kiện khí tượng thủy văn trong trận chiến Bạch Đằng 1288http://tuanbaovannghetphcm.vn, http://tuanbaovannghetphcm.vn/nghe-thuat-lua-chon-dia-hinh-va-dieu-kien-khi-tuong-thuy-van-trong-tran-thuy-chien-bach-dang-1288/
[6] Nguyễn Tuấn Anh (18/06/2018), Sông Bạch Đằng và dấu ấn 3 lần chiến thắng hiển hách chống ngoại xâmanh135689999.violet.vn, https://anh135689999.violet.vn/entry/show/entry_id/10282623/cat_id/6245633

Nhận xét