13/8
1. Viện sĩ – Hoạ sĩ Trần Văn Cẩn, sinh ngày
13/8/1919 tại thị xã Kiến An, nguyên quán ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, qua đời năm
1994 ở Hà Nội.
Ông được những người yêu nghệ thuật tạo hình
biết đến từ trước năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tích cực tham gia các
hoạt động hội hoạ phục vụ kháng chiến. Tuy ông tốt nghiệp trường cao đẳng Mĩ
thuật Đông Dương, nhưng ông luôn luôn tìm tòi lối vẽ truyền thống Việt Nam kết
hợp với lối vẽ Hàn lâm Pháp.
Trần Văn Cẩn có nhiều tác phẩm tiêu biểu
như: "Em Thuý" (sơn dầu), "Gội
đầu"(khắc gỗ), "Xuống đồng" (tranh
lụa), "Tát nước đồng chiêm" (sơn mài), "Nữ
dân quân vùng biển" (sơn dầu)...
Các tác phẩm của Trần Văn Cẩn đã được trưng bày
ở nhiều cuộc triển lãm trong nước và nước ngoài.
Ông không chỉ là một hoạ sĩ nổi tiếng mà còn là
một người thầy tận tuỵ, hết lòng đào tạo các nghệ sĩ tạo hình nước ta.
Năm 1996, cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn được Nhà nước
trao giải thưởng Hồ Chí Minh.
2. Ngay sau khi được tin Nhật đầu hàng, Trung
ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5
đồng chí: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị, Chu Văn
Tấn, do Tổng bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách.
23 giờ ngày 13/8/1945, Uỷ ban đã ban bố Quân
lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Văn kiện lịch sử này kêu gọi: "Hỡi
quân dân toàn quốc! Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến, cơ hội có một của nhân dân Việt
Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập cho nước nhà!".
Văn kiện thông báo việc thành lập Uỷ ban khởi
nghĩa và kêu gọi toàn thể nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng hãy hành
động theo mệnh lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, và thúc giục: "Chúng ta phải
hành động nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Tổ quốc
đang đòi hỏi những hi sinh lớn lao của các bạn! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất
định sẽ về ta!".
3. Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn
quốc Đảng cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào. Tham dự Hội nghị có đại biểu
các Đảng bộ điạ phương và một số đại biểu hoạt động của nước ngoài. Hội nghị
họp đúng vào tình thế Cách mạng trở nên khẩn trương, như Nghị quyết hội nghị
vạch rõ: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi... Toàn dân
tộc đang sôi nổi đợi chờ khởi nghĩa giành quyền độc lập".
Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong
nước, bản Nghị quyết đề cập tới hàng loạt các vấn đề cụ thể và cấp bách như:
Công tác ngoại giao, tuyên truyền cổ động, nhiệm vụ quân sự, kinh tế, giao
thông, vận động các giới, đảng phái. Hội nghị cũng thông qua 10 chính sách lớn
của Việt Minh, coi đó là một mục tiêu cơ bản và trước mắt của toàn Đảng, toàn
dân.
4. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1892 ở tỉnh Long
An và mất ngày 13/8/1976 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 20 tuổi, ông bắt đầu đi hát với các
bạn.
Năm 26 tuổi ông sáng tác bài "Dạ cổ
hoài lang" (nghĩa là: "Nghe tiếng trống đêm nhớ người
tình").
Từ bài Vọng cổ này đã hình thành dòng dân ca Cải
lương Nam Bộ thắm đượm lòng người và tình yêu quê hương đất nước. Nhạc sĩ Cao
Văn Lầu được coi là người khởi xướng dân ca Cải lương với sự kết hợp nhuần nhuyễn
dân ca Nam Bộ với ca cổ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông tham gia
công tác Mặt trận liên Việt ở Bạc Liêu. Năm 1947, ông đã cứu được một số cán bộ
bị bắt giữ.
Suốt cuộc đời ông thà chịu nghèo, chứ không phục
vụ bọn cướp nước và bán nước.
14/8
1. Nhà văn, nhà báo Nguyễn An Ninh sinh năm
1900, quê ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh).
Thuở nhỏ ông học ở Sài Gòn, sau du học ở Pháp và đỗ cử nhân Luật lúc 21
tuổi.
Trong thời gian học ở Paris. ông liên hệ với
Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và tiếp xúc với Nguyễn Ấi Quốc. Năm 1922, ông
về nước. Bài diễn thuyết "Cao vọng thanh niên" ông đọc tại Hội khuyến
học Nam Kì vang vọng như một bản tuyên ngôn, kêu gọi thanh niên và giới trí
thức. Ông ra tờ báo "Cái chuông rè" là cơ quan ngôn luận chống thực
dân Pháp. Ngoài những bài diễn thuyết, những bài báo cả tiếng Việt lẫn tiếng
Pháp đều nổi tiếng và gây nên một tiếng vang lớn trong giới tiến bộ, ông còn
soạn các sách: "Tôn giáo", "Trưng Nữ Vương",
"Dân ước"
Sau hai lần bị bắt, ra tù ông vẫn tiếp tục đấu
tranh. Ngày 5/10/1939, ông bị bắt và bị kết án 5 năm lưu đày ở Côn Đảo. Trên
đảo, ông bị kiệt sức vì bị hành hạ và đã mất ở trong tù vào ngày 14/8/1943 lúc
đó ông mới 43 tuổi.
2. Ngày 14/8/1945, sau hội nghị toàn quốc, Đảng
quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa, ra lời hiệu triệu kêu gọi các Đảng
viên: "Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Dân tộc ta đã đến lúc vùng dậy cướp lại
chính quyền độc lập của mình! Trước cơ hộ có một không hai này, toàn thể dân
tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân giải phóng
Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do hạnh phúc cho
nhân dân".
3. Ngày 14/8/1996, Bộ giao thông vận tải nước ta
đã tổ chức lễ khởi công xây dựng đường ô tô cao tốc Láng - Hoà Lạc giai đoạn I
(thuộc tuyến đường mới Hà Nội – Ba Vì).
Tuyến đường quan trọng này dài 30 km nhằm phục
vụ chương chình khai thác tiềm năng kinh tế – văn hoá của vùng Ba Vì (Hà Tây),
thông qua việc hình thành ở đây một khu công nghệ kĩ thuật cao, Trung tâm đại
học quốc gia, Làng văn hoá các dân tộc Việt Nam và cụm du lịch sinh thái rất
gần với thủ đô Hà Nội.
Tuyến đường Láng - Hoà Lạc có 2 km ở nội thành
và 12 km ở ngoại thành Hà Nội.
15/8
1. Từ 15 đến 28/8/1945, Việt Nam giải phóng quân
cùng toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.
Đêm ngày 15 và ngày 16/8/1945, từ Tân Trào, Việt
Nam giải phóng quân chia làm hai bộ phận, tiến về tỉnh lị Tuyên Quang và Thái
Nguyên. Ngày 17 tiến công trại lính Nhật ở thị xã Tuyên Quang, ngày 20 bao vây
quân Nhật ở Thái Nguyên, kêu gọi chúng đầu hàng.
Cùng nhân dân các địa phương, Việt Nam giải
phóng quân phát triển nhanh chóng trong quá trình tổng khởi nghĩa và là lực
lượng quân sự cách mạng đóng góp vào sự thành công của việc giành chính quyền
về tay nhân dân.
2. Ngày 15/8/1946, Chính phủ ra quyết định thành
lập thị xã Hưng Yên, gồm có 2 khu phố Đầu Lĩnh và Đằng Giang. Thị xã Hưng Yên
có phố Hiến nổi tiếng, từ cuối thế kỉ XVI đã có nhiều người nước ngoài đến đây
buôn bán, tàu buôn đến dỡ hàng và nộp thuế ở đây. Các lái buôn Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Pháp, Anh, Hoa kiều lần lượt đến phố Hiến.
Hiện nay, phố Hiến và thị xã Hưng Yên còn nhiều
di tích lịch sử hấp dẫn khách du lịch trong nước và ngoài nước.
16/8
1. Tại phiên họp thứ 40 Đại hội lần thứ 7 của
Quốc tế cộng sản ngày 16/8/1935, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai (lấy tên là Phan
Lan) đã đọc tham luận. Bản tham luận nêu rõ phong trào đấu tranh và những thành
tích của phụ nữ Đông Dương, sau đó đề cập đến vai trò phụ nữ trong cuộc đấu
tranh hoà bình.
2. Quốc dân đại hội được triệu tập ở Tân Trào
(Tuyên Quang) từ ngày 16 đến 17/8/1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu
Trung, Nam, Bắc, đại biểu kiều bào ở nước ngoài, đại biểu các đảng phái chính
trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc và tôn giáo... Đại hội đã quán triệt
đường lối của Hội nghị toàn Quốc Đảng cộng sản Đông Dương đã tiến hành khởi
nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Đại hội thông
qua 10 chính sách lớn của Việt Minh là:
- Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập ...
- Vũ trang nhân dân, phát triển Quân giải phóng
Việt Nam.
- Tịch thu tài sản của giặc và Việt gian, tuỳ
từng trường hợp, sung công hay chia cho dân nghèo.
- Bỏ các thứ thuế do Nhật, Pháp đặt ra, đặt một
thứ thuế công bằng và nhẹ.
- Ban bố những quyền dân chủ cho dân.
- Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa
tô, lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
- Ban bố luật lao động.
- Xây dựng kính tế quốc dân, phát triển nông
nghiệp, mở mang ngân hàng.
- Xây dựng nền quốc dân giáo dục.
- Thân thiện và giao hảo với các nước đồng minh
và các nước dân tộc nhược tiểu.
Đại hội còn quy định Quốc kì là lá cờ đỏ có ngôi
sao vàng 5 cánh ở giữa. Quốc ca là bài "Tiến quân ca" và
cử ra Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Uỷ ban giải phóng dân tộc giao quyền chỉ huy cho Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quyền hành động.
Đại hội Quốc dân Tân Trào đã thể hiện được sự
đoàn kết nhất trí và ý chí quyết thắng của cả dân tộc trong mặt trận Việt Minh,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Giáo dục tiểu học là điều kiện cơ bản để nâng
cao dân trí là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng cho việc đào tạo trẻ em trở
thành công dân tốt cho đất nước. Với mục đích đó ngày 16/8/1991, Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước đã kí lệnh công bố Luật phổ cập giáo dục tiểu học.
Luật này quy định chế độ phổ cập giáo dục tiểu
học với nội dung chính như: Học sinh, nhà trường, gia đình, xã hội trong phổ
cập giáo dục tiểu học; Quản lí Nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học; khen
thưởng và xử lí vi phạm.
17/8
1. Ngày 17/8/1966, dân quân quận Phù Yên tỉnh
Nghĩa Lộ bắn 3 phát súng trường xuyên thủng chiếc ghế ngồi của tên giặc lái máy
bay Mĩ, góp phần xứng đáng cùng bộ đội Pháp cao xạ bắn rơi một chiếc F4 Mĩ.
2. Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị Trung
ương Đảng, từ đêm 17/8 đến 30/9/1968, quân và dân ta ở miền Nam lại mở đợt tiến
công và nổi dậy lần thứ ba trong năm 1968. Ta đã đánh vào 27 thành phố, hơn 100
thị trấn, quận lị, chi khu quân sự, 17 sân bay, 3 kho và 6 Bộ tư lệnh sư đoàn
của địch.
18/8
1. Sau 15 ngày đêm mưa liên
tục, cơn lũ năm 1945 đã đạt đến đỉnh cao vào ngày 18/8/1945 và đạt mức nước
lịch sử. Ngay trong ngày 18/8 nước lũ đã làm vỡ hàng loạt đê: đê Quảng Cự, đê
Diêm Xuân (VĩnhTường, Vĩnh Yên); đê hữu ngạn sông Cầu; đê Đông Lao sông Đáy (Hà
Đông); đê Bất Bạt sông Bo (Sơn Tây); đê Hưng Nhân sông Hồng (Thái Bình); đê
Hồng Hà (Việt Trì); đê Vĩnh Bảo và Thạch Trù (Hải Dương); đê tả ngạn sông Kinh
Thày (Hải Dương).
Trước đó, ngày 17/8, đê sông Thao, sông Lô vỡ. Các đê sông Hồng vỡ ngày 18/8, đê sông Phó Đáy vỡ ngày 20/8, đê Thái Bình vỡ ngày 21/8. Đê vỡ làm úng lụt 1/3 diện tích cấy cày ở Bắc Bộ. Những vụ vỡ đê do mưa lũ, mưa lớn, còn do bộ máy quản lí đê bị tê liệt và do bọn phản động phá hoại đã làm trầm trọng thêm nạn đói vốn đã hoành hành từ trước, làm chết hai triệu người, và đặt chính quyền Cách mạng được lập ra sau các vụ vỡ đê vài ngày trước đó những khó khăn cực kì nghiêm trọng để phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Trước đó, ngày 17/8, đê sông Thao, sông Lô vỡ. Các đê sông Hồng vỡ ngày 18/8, đê sông Phó Đáy vỡ ngày 20/8, đê Thái Bình vỡ ngày 21/8. Đê vỡ làm úng lụt 1/3 diện tích cấy cày ở Bắc Bộ. Những vụ vỡ đê do mưa lũ, mưa lớn, còn do bộ máy quản lí đê bị tê liệt và do bọn phản động phá hoại đã làm trầm trọng thêm nạn đói vốn đã hoành hành từ trước, làm chết hai triệu người, và đặt chính quyền Cách mạng được lập ra sau các vụ vỡ đê vài ngày trước đó những khó khăn cực kì nghiêm trọng để phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
2. Từ tháng 5/1965 Mĩ huy
động 8.000 lính thuỷ đánh bộ và hàng trăm máy bay phản lực ném bom, máy bay lên
thẳng và tàu chiến tiến hành càn quét thôn Vạn Tường, huyện Bình Sơn, Quảng
Ngãi, một thôn nhỏ thuộc xã Bình Hải, chiều dài không quá 6 km, rộng không quá
3 km. Trong hai ngày chiến đấu quyết liệt, quân giải phóng đã tiêu diệt 919 tên
Mĩ, phá huỷ 22 xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay.
Nếu trận ấp Bắc đã mở đầu cao trào diệt quân Nguỵ – đội quân được Mĩ tổ chức, huấn luyện, trang bị và chỉ huy, thì trận Vạn Tường mở đầu cao trào diệt quân Mĩ xâm lược. Trận Vạn Tường chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mĩ về quân sự trong chiến tranh cục bộ.
Nếu trận ấp Bắc đã mở đầu cao trào diệt quân Nguỵ – đội quân được Mĩ tổ chức, huấn luyện, trang bị và chỉ huy, thì trận Vạn Tường mở đầu cao trào diệt quân Mĩ xâm lược. Trận Vạn Tường chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mĩ về quân sự trong chiến tranh cục bộ.
19/8
1. Từ 15 – 8 – 1945 xứ Uỷ
Bắc Kì trực tiếp chỉ thị cho Hà Nội khởi nghĩa và thành lập uỷ ban khởi nghĩa.
Hà Nội tràn ngập không khí cách mạng. Sáng ngày 19/8/1945 hơn 10 vạn đồng bào
Hà Nội xuống đường tuần hành thị uy. Một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường nhà
hát lớn chuyển thành khởi nghĩa giành chính quyền. Lực lượng quần chúng nhanh
chóng chiếm Phủ Khâm Sai, toà thị chính thành phố, trại bảo an và các công sở
quan trọng khác.
Cùng ngày với Hà Nội, nhân
dân các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phú Yên, Thanh Hoá, Khánh Hoà cũng vùng lên
khởi nghĩa và giành thắng lợi nhanh chóng.
2. Cùng với cuộc tổng khởi
nghĩa 19/8/1945 ở Hà Nội, lực lượng công an nhân dân Việt Nam đã chính thức
được thành lập.
Sinh ra và lớn lên trong
bão táp cách mạng, lực lượng công an nhân dân đã góp công lớn trong việc bảo vệ
chính quyền nhân dân non trẻ chống thù trong giặc ngoài. Đêm 13/7/1946 lực
lượng công an nhân dân Thủ đô đã đập tan âm mưu phản cách mạng định lật đổ
chính quyền do bọn phản động "Việt Quốc", "Việt Cách" tổ
chức. Các sào huyệt của chúng ở 80 Quan Thánh, 132 Bùi Thị Xuân, 7 Ôn Như Hầu
bị phá tan. Những vụ trừng trị ác ôn ở phố Hàng Vải, Lò Đúc, Phố Huế đã làm bọn
giặc kinh hồn khiếp vía.
Ngày nay, lực lượng Công an
nhân dân càng thấm nhuần 6 lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức nâng cao
tinh thần cảnh giác, tiến công địch trên mọi mặt, nỗ lực xây dựng và phát triển
lực lượng, dựa vào sức mạnh tổng hợp, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam. Với thành tích xuất sắc, lực lượng Công an nhân dân Việt
Nam đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều danh hiệu cao
quý khác.
3. Ngày 19/8/1961, đồng chí
Nông Văn Nhúng (tức Xuân Trường) được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số
337/TTG cấp bằng Tổ quốc ghi công.
Đây là liệt sĩ đầu tiên của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đồng chí Nhúng người dân
tộc Tày, quê ở xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tham gia Cách mạng từ
năm 1942, là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Đồng chí hi sinh tối mồng 4
tháng 2 năm 1945 trong trận đánh đồn Đồng Mu, trận đánh thứ ba của đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân (sau trận Phai Khắt, Nà Ngần). Khi đó đồng chí là
tiểu đội trưởng.
4. Ngày 19/8/1963, Bảo tàng
văn hoá các dân tộc Việt Nam (ở thành phố Thái Nguyên) đã mở cửa phục vụ người
xem.
Bảo tàng này có diện tích
sử dụng 4.000m2, trong đó có 2.000m2 dành cho trưng
bày. Sau phần mở đầu giới thiệu khái quát 54 dân tộc cư trú trên đất nước Việt
Nam – được phân thành tám nhóm ngôn ngữ, thuộc các ngữ hệ Nam Á, Nam Đảo, Hán –
Tạng, Tày – Thái – là các phần nói về đặc trưng văn hoá của nhóm Việt Mường,
Tày Thái, Mông Dao, Môn – Khme, Hán – Tạng. Mỗi nhóm dân tộc được trình bày
theo trình tự: Nguồn gốc lịch sử, địa vực cư trú, nhà cửa, hình thái kinh tế,
đặc trưng văn hoá vật chất, truyền thống văn hoá tinh thần.
Bảo tàng văn hoá các dân
tộc Việt Nam đang lưu giữ hơn 10 nghìn hiện vật, trong đó có nhiều sưu tập quý
như trang phục các dân tộc, công cụ sản xuất, săn bắt, hái lượm, nghề thủ công
cổ truyền, nghệ thuật dân gian, nhạc cụ dân tộc.
Biên biên tập sưu tầm
Nguồn: http://ngonngu.net/extra.php?s=1
Nhận xét
Đăng nhận xét