Biểu trưng của thành phố Đà Nẵng
Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến
không chỉ là một thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa
danh gắn liền với công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỉ trước. Dấu
vết của một cửa ngõ giao lưu quốc tế gắn liền với xứ Đàng Trong vẫn còn, và
trong dư ba của lịch sử, đây là một tiền đồn quan trọng trong công cuộc chống
ngoại xâm của hai cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua.
Thành
phố Đà Nẵng phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng
Nam, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm thành phố cách thủ đô Hà Nội 764km về
phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964km về phía Nam, cách thành phố Huế
108km về hướng Tây Bắc. Đây là một thành phố vừa có núi cao, sông sâu, đồi dốc
trung du xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp.
Bản đồ thành phố Đà Nẵng
Theo
ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là “sông lớn”, “cửa
sông lớn”. Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ được vẽ từ thế kỉ XVI
trở đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình thành tên gọi, tính chất
cửa sông lớn, tính chất cảng thị đã được lưu ý như một điểm quan trọng của
thành phố.
Bản đồ Annam được vẽ bởi Alexandre de Rhodes có địa danh "Cua han"
Là
một trong những cửa sông lớn của miền Quảng Nam (mở rộng về phương Nam), từ nhiều
thế kỷ trước, kể cả khi Hội An còn đang trong thời kì phát triển rực rỡ vào thế
kỉ XVII, cửa biển Đà Nẵng đã được đánh giá rất cao.
Chúng ta từng biết bức
tranh nổi tiếng của dòng họ Chaya Nhật Bản vẽ quang cảnh buôn bán ở Hội An. Nếu
đúng như một giả thiết rằng cửa biển vẽ trong ấy là cửa biển Đà Nẵng với Ngũ
Hành Sơn và con sông Cổ Cò thì không có gì ngạc nhiên khi cho rằng những chiếc
tàu vượt đại dương, có trọng tải lớn, thiết bị kỹ thuật đi biển cao của các
thương nhân Nhật Bản hoặc Trung Hoa đều phải lựa chọn lối vào là cửa Đà Nẵng
thay vì cửa Hội An, vì ưu thế vượt trội của vịnh Đà Nẵng là nước sâu và có độ
an toàn cao. Trên thực tế, từ thế kỉ thứ XVIII trở về sau, tiềm năng Đà Nẵng với
tư cách là một hải cảng đã ngày càng tỏ rõ tính ưu việt của nó đối với khu vực.
Bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku,
có thuyết cho rằng hình ảnh cửa biển
trong hình chính là cửa Đà Nẵng
Năm
1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại Cửa Hàn, còn các biển
khác không được tới buôn bán” thì Đà Nẵng trở thành một thương cảng lớn bậc nhất
miền Trung. Từ thời điểm này trở đi, thay vì cửa Đại Chiêm như trước đây, các
quan hệ về buôn bán, ngoại giao ngày một tập trung dần vào một đầu mối chính của
miền Trung là cửa biển Đà Nẵng. Nhờ vị trí và vai trò ngày càng quan trọng với
miền Trung, Đà Nẵng bắt đầu phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp địa
phương như những ngành sửa chữa tàu thuyền, sơ chế nông lâm sản, các dịch vụ
thương mại liên quan.
Cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa thể hiện trên
Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng
cuộc tấn công vào Đà Nẵng. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương thì Pháp tách
Đà Nẵng khỏi Quảng Nam với tính cách là một nhượng địa (concession) và đổi tên
thành Tourane. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền
Đông Dương thay vì triều đình Huế - tuy thị trấn này năm trong xứ Trung Kỳ.
Quân Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858
Đầu
thế kỉ 20, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây
phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Các ngành nghề sản
xuất và kinh doanh hình thành và phát triển: sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sữa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ.
Cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng
của cả nước.
Bản đồ
thành phố Đà Nẵng (Tourane) năm 1908
(trừ bán đảo Sơn Trà không được thể hiển
trong bản đồ)
Tháng
3 năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp
lớn. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định là thành phố
trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm
chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Vào
lúc 18 giờ, ngày 25-5-1965, quân dân ta đã chiến thắng đầu tiên trước quân đội Mỹ,
lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng quân Mỹ xâm lược” được cắm
lên trên đỉnh Núi Thành tỉnh Quảng Nam.
Tại
Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam và Quân ủy Miền đã nhất trí tuyên dương 3 tỉnh đạt
thành tích xuất sắc nhất trong sự nghiệp chống Mỹ (1954 - 1967), các danh hiệu
sau đây:
1- Bến
Tre “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy”.
2- Long
An “Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc”.
3- Quảng
Nam - Đà Nẵng “Trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.
Ngày
nay, tại ngọn đồi nằm ở phía đông Núi Thành cao 43m, gần cạnh quốc lộ 1A, một
tượng đài uy nghi mang dòng chữ “Chiến thắng Núi Thành” đã được xây dựng ghi dấu
một chiến công bất khuất của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng thời
kháng chiến chống Mỹ.
Tượng đài Núi Thành
Năm
1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng (là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng)
bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh. Mặc dù còn lắm
khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành phố đã đạt nhiều thành quả,
nhất là thời kỳ đổi mới, sau 1986.
Bãi biển
Đà Nẵng với bãi cát mịn chạy dài
Ngày
6/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết cho phép
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực
thuộc Trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành
phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa.
Người viết: Lê Thái Dương
Nhận xét
Đăng nhận xét