Hình 1. Chân dung Lý Thường Kiệt
trong truyện Lịch sử Việt Nam
bằng tranh tập
18.
Sau thất bại lần thứ nhất
năm 981 trên sông Bạch Đằng (dưới thời vua Lê Hoàn), lợi dụng lúc Đại Việt có
ấu vương thơ dại đăng cơ, nhà Tống ráo riết chuẩn bị mưu đồ thôn tính nước ta
một lần nữa.
Biết rõ tình hình thế
địch, nhà Lý đã chủ động tích cực phòng bị, củng cố lực lượng, nắm chắc mọi
động thái của kẻ thù (từ nội tình bất ổn của nhà Tống đến sự thiếu tập trung
nhanh chóng lực lượng quân tinh nhuệ từ biên giới Tống – Liêu phương Bắc xuống,
cũng như tinh thần chiến đấu kém cỏi, nhụt chí của hơn 10 vạn tân binh tại Ung
Châu, Khâm Châu, Liêm Châu, ) từ đó hòng mở cuộc tấn công đánh bại hoàn toàn
mối uy hiếp chủ quyền từ phương Bắc. Lý Thường Kiệt chủ trương “Ngồi yên đợi
giặc không bằng đem quân đánh trước chặn mũi nhọn quân thù”. Ông thực hiện cuộc
tấn công bằng cả đường thủy và đường bộ bất ngờ sang đất Tống, nhanh chóng tiêu
diệt các đồn trại phía Nam, triệt phá căn cứ hậu cần quan trọng ở biên giới các
thành Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu. Nhờ đó, 10 vạn quân tinh nhuệ Đại Việt đã
tạo tiền đề cho toàn dân giành thắng lợi toàn cục, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền đất nước. Thông qua đó, có thể thấy, đây là tư tưởng chỉ đạo chiến
lược chiến tranh sáng tạo điển hình, phát triển vượt bậc với ba điểm nghệ thuật
đặc sắc chính là: nắm vững tình hình biên giới cũng như trong nội địa của địch
– tương quan lực lượng để có kế sách tiến công chủ động táo bạo, đánh bại ý chí
xâm lược của kẻ thù trên chính lãnh thổ của chúng mà giành thắng lợi; biết tạo
lập quyết tâm cho binh sĩ vượt mọi gian khó để đánh bại quân thù cũng như sự
ủng hộ của quần chúng nhân dân nước Tống đối với cuộc tiến công chiến lược, tự
vệ chính đáng của quân dân Đại Việt; cuối cùng, biết vận dụng linh hoạt các
hình thức tác chiến khác nhau như “vây thành, diệt viện”, tập kích, phục kích,
vây thành, công thành, chủ động giảng hòa mở đường thoát danh dự cho địch, …
nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giành toàn thắng cuối cùng.
Hình 2. Vị trí của Khâm Châu (Quảng Tây)
Hình 3. Vị trí của Ung Châu (Quảng Tây)
Hình 4. Tạo hình tướng Tô Giám
trong phim Lý Thường Kiệt - phần 2
Đấy cũng chính là điển
hình của nghệ thuật văn hóa quân sự Việt
Nam có một không hai trên thế giới mà Lý Thường Kiệt là điển hình của những bậc
danh tướng vừa có tài thao lược quân sự kiệt xuất vừa mang đậm tư tưởng nhân
văn sâu sắc khiến cả kẻ thù cũng phải khâm phục. Vốn dĩ quy luật của chiến
tranh là mạnh được yếu thua, ý chí chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất
đứng lên bảo vệ quê hương đất nước vì độc lập tự chủ dân tộc cũng được động
viên đến mọi tầng lớp nhân dân, khơi dậy không khí giành và giữ chủ quyền quốc
gia trong cả nước mà minh chứng rõ nhất qua lời tuyên bố đanh theo vang vọng từ
đền Trương Hống Trương Hát:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời".
nhưng lại xuất phát từ
truyền thống đạo lý “thương người như thể thương thân”, mà trong kháng chiến
chống Tống đã kết hợp chặt chẽ giữa thế và lực, vận dụng tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt “mưu phạt tâm công”, giành thắng lợi với tổn thất ít nhất cho cả ta và
địch, không mà hình thức rõ nhất được vận dụng sáng tạo ở thời đại Lý Nhân Tông
là Lộ bố văn giúp những người bên kia chiến tuyến thấy rõ tính chính nghĩa,
chống quân xâm lược của quân dân Đại Việt, tính phi nghĩa – nô dịch của nhà cầm
quyền xâm lược hiếu chiến Đại Tống, là chủ động giảng hòa, mở đường hiếu sinh
cho quân sĩ đối phương về nước an toàn.
"Trời sinh ra dân
chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống
ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An
Thạch, bày những phép "thanh miêu", "trợ dịch", khiến trăm
họ mệt nhọc lầm than mà riêng thoả cái mưu nuôi mình béo mập.
Bởi tính mệnh muôn dân
đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố
nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!
Nay bản chức vâng mệnh
quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ
có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi
tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi !"
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi !"
Đó chính là điều kiện đầy
tính nhân văn sâu sắc để hai nước gây dựng lại mối quan hệ hòa hiếu, hữu hảo,
cùng phát triển, là hành động thể hiện khát vọng hòa bình, ổn định phát triển
cháy bỏng của quân dân Đại Việt. Như vậy, tiên phát chế nhân còn đi liền với
tiên phát hòa giải, chủ động giảng hòa, tạo tiền đề quan trọng cho ngoại giao
Việt – Tống thuận lợi duy trì và phát triển ổn định sau này, để lại ba dấu ấn
quan trọng cho nghệ thuật văn hóa quân sự Việt Nam: đó là vừa động viên toàn
dân đánh giặc, xây dựng ý chí quyết chiến bất khuất trước quân thù vừa vận dụng
linh hoạt “thế, lực, thời, mưu”giành thắng lợi ít tổn thất nhất cho cả hai
phía, lại còn mang tính nhân văn, dân tộc sâu sắc được kế thừa và phát triển ở cả
các thế hệ tiếp nối sau này.
Tư tưởng kháng chiến
chống Tống dưới thời Lý Thường Kiệt cũng là một biểu hiện của phương thức đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình với ba nội dung chính là tranh thủ thời bình củng
cố quân đội, phát triển kinh tế, chuẩn bị đầy đủ kiện toàn về mọi mặt cho giai
đoạn kháng chiến ngay sau đó, mà cụ thể ở thời Lý Nhân Tông chính là chính sách
“ngụ binh ư nông” (gửi quân ở nhà nông) – chính sách phên giậu tạo thành lũy
quan hệ kết nối vững chắc giữa các thân hào thổ ty với triều đình trung ương,
và chính sách bảo vệ sức sản xuất nông nghiệp, trâu bò cày, v.v hai là, luôn
giữ hòa hiếu, giao hảo, ngoại giao “lạt mềm buộc chặt”, khôn khéo hàm chứa tinh
thần quật cường bảo vệ hòa bình, ổn định phát triển đất nước, tránh oán cừu dẫn
đến nguy cơ chiến tranh xâm lược, tổn hại cho dân tộc; ba là, vừa đánh vừa đàm
sao cho ít tổn thất và hậu họa nhất có thể, thậm chí như thời Lý Nhân Tông này,
ta đã tiêu diệt được xương sống của đội quân xâm lược nên gửi tối hậu thư yêu
cầu địch nhanh chóng rút lui quân, thua nhưng vẫn giữ được danh dự của thiên
triều! Phương thức đấu tranh cùng tồn tại hòa bình ấy của nhà Lý đã giúp Đại
Việt được hưởng nền thái bình thịnh trị, giữ vững môi trường hòa bình, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ theo năm tháng.
Cuộc tập kích chiến lược
sang đất Tống thể hiện tư tưởng “tiên phát chế nhân” không chỉ là dấu ấn của
chiến công vang dội trong trang sử hào hùng của dân tộc, mà còn trở thành nét
nghệ thuật độc đáo trong chiến tranh giữ nước của dân tộc ta. Tư tưởng quân sự
truyền thống - “tiên phát chế nhân” - còn nguyên giá trị trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc ngày nay.
Người viết: Nguyễn Minh Giang
Tài liệu tham khảo
1. Minh Chí,
(30/04/2007), “Lý Thường Kiệt và tài biến hóa khôn lường trong phòng thủ - tấn
công”, tạp chí Lanhdao.net, <url: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1279&Itemid=67>,
truy lục ngày 12/08/2018
2. Tạ Hữu Hùng
(19/05/2016), “Giá trị văn hóa trong nghệ thuật quân sự Việt Nam”, tạp chí Quốc phòng toàn dân,
<url: http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/gia-tri-van-hoa-trong-nghe-thuat-quan-su-viet-nam/8925.html>,
truy lục ngày 12/08/2018
3. Nguyễn Thanh Hữu
(17/09/2015), “Tư tưởng “tiên phát chế nhân” trong cuộc chiến tranh chống Tống
xâm lược (1075 – 1077)”, tạp chí Quốc phòng toàn dân,
<url:
http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-tim-hieu/tu-tuong-tien-phat-che-nhan-trong-cuoc-chien-tranh-chong-tong-xam-luoc-1075-1077/8095.html?pageindex=10>,
truy lục ngày 12/08/2018
4. Nguyễn Khắc Luyện
(12/11/2012), “Đấu tranh cùng tồn tại hòa bình – kế sách giữ nước lâu dài của
các triều đại phong kiến Việt Nam”, tạp chí Quốc phòng toàn dân,
<url: http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/dau-tranh-cung-ton-tai-hoa-binh-%E2%80%93-ke-sach-giu-nuoc-lau-dai-cua-cac-trieu-dai-phong-kien-viet-nam/1556.html>,
truy lục ngày 12/08/2018
5. Lê Đình Sỹ (1998),
“Vương triều Lý – những cống hiến trên lĩnh vực quân sự”, Kỷ yếu hội thảo quốc
tế Việt Nam
học lần thứ nhất, tr.357-367.
6. Đỗ Minh Thái
(28/07/2014), “Những bài học kinh nghiệm giữ nước”, tạp chí Đảng Cộng sản, <url: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=28366&print=true>,
truy lục ngày 12/08/2018
Nguồn ảnh
1.
https://kienthuc.net.vn/kho-tri-thuc/ly-thuong-kiet-danh-bai-100-van-quan-tong-the-nao-800640.html
2.https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_T%E1%BB%91ng-Vi%E1%BB%87t,_1075-1076#/media/File:Qinzhou.png
3. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_T%E1%BB%91ng-Vi%E1%BB%87t,_1075-1076#/media/File:Nanning.png
4. https://www.facebook.com/vietsukieuhung/
Nhận xét
Đăng nhận xét