Vấn đề thống nhất đất nước ở Triều Tiền và Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1947 - 1989)


Vấn đề thống nhất đất nước và ổn định chính trị của quốc gia luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với bất kỳ một triều đại, một quốc gia và một thể chế chính trị nào bởi nhờ đó mà giai cấp cầm quyền mới có thể toàn tâm toàn ý lo việc trị nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... Và Việt Nam cũng không nằm ngoài vấn đề đó. 
Có thể nói rằng trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược cũng như đấu tranh để giành độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó được xem là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc.
Bên cạnh đó, xuất phát từ sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, nhất trí đồng lòng, cố gắng vượt qua mọi hy sinh, gian khổ và phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến dấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng để thống nhất đất nước và không chấp nhận tình trạng bị chia cắt.
 Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã hai lần rơi vào tình trạng bị chia cắt làm cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội vô cùng rối ren.
Đó là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ XVII - XVIII và thời kỳ Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975). Cả hai lần đất nước đều bị chia thành 2 lãnh thổ khác nhau, tuy nhiên trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ XVII - XVIII, lãnh thổ Đại Việt bị chia thành  hai khu vực mà mỗi bên đều có chính quyền riêng cai trị: vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vùng đất thuộc sông Gianh, luỹ Thầy (Quảng Bình) được lấy làm ranh giới phân chia 2 Đàng. Và ranh giới này thực sự bị xoá bỏ sau khi Nguyễn Huệ đã tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1776), lật đổ chính quyền vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (1786 - 1788). Với việc đánh tan các thế lực phong kiến chúa Nguyễn, chúa Trịnh và vua Lê, Nguyễn Huệ đã tạo điều kiện cho nước Đại Việt lập lại được nền thống nhất sau hơn 160 năm bị chia cắt (1627 - 1788).
Còn trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, theo nội dung Hiệp định Genève năm 1954 thì lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải - Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung về phía Bắc; Quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả Quân đội Quốc gia Việt Nam) tập trung về phía Nam, tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Tức, vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời chứ không phải biên giới quốc gia (căn cứ vào Điều 6, Bản Tuyên bố chung ghi rõ: “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.”). Và trong bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956 đồng nghĩa với việc Việt Nam thống nhất và giới tuyến quân sự tạm thời bị xoá bỏ. Tuy nhiên, đã không có cuộc Tổng tuyển cử nào diễn ra vào tháng 7-1956 và vĩ tuyến 17 đã trở thành giới tuyến quân sự chia cắt 2 miền Nam Bắc cho đến khi miền Nam được giải phóng trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thì Việt Nam đã thống nhất hoàn toàn về mặt lãnh thổ và vĩ tuyến 17 giới tuyến quân sự chia cắt 2 miền đã bị xoá bỏ.
Tuy nhiên trong phạm vi của bài viết, tôi không thể phân tích rõ nét về các vấn đề xoay quanh hai lần Việt Nam bị chia cắt mà chỉ tập trung làm rõ nguyên nhân Việt Nam đã hoàn thành thống nhất cả hai miền Nam Bắc vào năm 1975 và bên cạnh đó có sự đối chiếu với việc thống nhất ở bán đảo Triều Tiên.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), một trật tự thế giới mới đã ra được xác lập. Đó là trật tự thế giới hai cực Ianta với đặc trưng nổi bật là thế giới chia thành hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - do hai siêu cường Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Đặc trưng hai cực - hai phe đó hầu như bao trùm thế giới và là nhân tố hàng đầu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa sau thế kỷ XX. Vấn đề ở bán đảo Triều Tiên và Việt Nam cũng nằm trong sự chi phối đó.
Tại bán đảo Triều Tiên, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào tháng 8-1945 cũng là lúc bán đảo Triều Tiên được giải phóng và bị tạm thời chia cắt làm hai miền: miền bắc thuộc quyền quân quản của Liên Xô và miền nam là miền quân quản của Mỹ theo đúng nghị quyết của Hội nghị Ianta (2-1945), vĩ tuyến 380 được coi là ranh giới tạm thời của 2 bên quân quản. Chính sự bất đồng quan điểm của Liên Xô - Mỹ đã dẫn đến sự bế tắc trong việc thành lập một chính phủ lâm thời ở Triều Tiên. Sau cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội được tiến hành ở miền Nam (10-5-1948), Đại Hàn dân quốc (gọi tắt là Hàn Quốc) được thành lập vào ngày 15-8-1948 do Lý Thừa Vãn làm Tổng thống. Ngày 9-9-1948, Hội nghị nhân dân toàn Triều Tiên tuyên bố thành lập Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và cử Kim Nhật Thành đứng đầu chính phủ mới. Cuối năm 1948, Liên Xô tuyên bố rút quân chiếm đóng khỏi miền bắc Triều Tiên, tháng 6-1949, Mỹ cũng rút khỏi miền nam Triều Tiên. Ngày 25-6-1950, cuộc chiến tranh 2 miền ở bán đảo Triều Tiên bùng nổ và đến này 27-7-1953, tại Bàn Môn Điếm, Hiệp định đình chiến được ký kết giữa hai miền Nam - Bắc Triều Tiên, vĩ tuyến 38 vẫn được chọn làm ranh giới quân sự .Cũng từ đó, hai miền Nam - Bắc trở thành hai quốc gia đi theo những định hướng phát triển khác nhau.
Với những sự kiện đã diễn ra ở bán đảo Triều Tiên từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), ta có thể thấy rằng bán đảo này đã chịu sự chi phối vô cùng mạnh mẽ của hai cường quốc lúc bấy giờ là Liên Xô và Mỹ. Sự chi phối đó biểu hiện rất rõ trong nghị quyết của Hội nghị Yalta (2-1945): “…, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc Triều Tiên và quân đội Mỹ chiếm đóng Nam Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 380 làm ranh giới, …”[1]. Đặc biệt, ngay tại Hội nghị ngoại trưởng 5 cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc được tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 16 đến ngày 26-12-1945, việc giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên cũng được đưa ra thảo luận cùng với các vấn đề khác ở Viễn Đông và Hội nghị đã thông qua những quy định quan trọng: “ Xây dựng một quốc gia độc lập; Thành lập một chính phủ dân chủ để đảm nhận việc phát triển công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và văn hoá chung cho cả nước; Uỷ ban hỗn hợp gồm đại biểu của hai bộ tư lệnh quân đội Liên Xô và Mỹ đóng ở bán đảo sẽ giúp vào việc thành lập một chính phủ lâm thời. Theo đó, thay mặt Đồng minh, quân đội Liên Xô sẽ đóng quân ở bắc vĩ tuyến 380, còn phía nam là quân đội Mỹ.[2]
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), mặc dù trong 3 tháng đầu của cuộc chiến (từ ngày 25-6-1950 đến ngày 13-9-1950), quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã vượt qua vĩ tuyến 380 mở cuộc tấn công quy mô tương đối lớn xuống phía Nam và đã chiếm 95% đất đai và 97% dân số ở đây nhưng đến ngày 15-9-1950, xuất phát từ nghị quyết ngày 7-7-1950 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với việc yêu cầu Mỹ cử tư lệnh lực lượng thống nhất của Liên Hợp Quốc đưa quân đến Triều Tiên và tập trung binh lực đổ bộ vào cảng Nhân Xuyên, sau đó tiến quân đánh chiếm miền Bắc đến tận sông Áp Lục sát biên giới Trung Quốc. Trước tình hình đó, ngày 25-10-1950, Trung Quốc phái quân chí nguyện sang “kháng Mỹ, viện Triều”, phối hợp với quân đội Bắc Triều Tiên đẩy lùi quân đội Mỹ ra khỏi Bắc vĩ tuyến 380. Tháng 7-1951, cuộc đàm phán về ngừng bắn được bắt đầu với sự tham gia của đại diện 4 bên: Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên, đại diện quân đội Mỹ ở Triều Tiên và đại diện quân chí nguyện Trung Quốc. Phải đến tháng 7-1953, Hiệp định đình chiến mới được ký kết ở Bàn Môn Điếm, lấy vĩ tuyến 380 làm ranh giới quân sự giữa hai miền Nam - Bắc. Một khu phi quân sự rộng 4 km sẽ ngăn cách quân đội hai bên. Từ đó, hai miền Triều Tiên bước vào thời kỳ hòa bình và xây dựng.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên giữa hai phe, không phân thắng bại.
Hình 1. Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953)
Nguồn ảnh: vi.wikipedia.org


Hình 2. Triều Tiên từ năm 1950 đến năm 1953.
Nguồn ảnh: vi.wikipedia.org
Tại Việt Nam, giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật Bản ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiên khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam đã vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945. Sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, vào chiều ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã bị cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đe dọa với việc ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tại Sài Gòn, mở đầu cuộc cuộc chiến tranh xâm lược lần hai. Sở dĩ, thực dân Pháp quay trở lại được là nhờ việc quân Anh với danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản đến Sài Gòn, dọn đường sẵn cho quân Pháp quay trở lại xâm lược. Đây là một âm mưu thâm độc của quân Anh với việc lợi dụng thỏa thuận của Hội nghị Pốtxđam (Đức) diễn ra từ ngày 17-7 đến ngày 2-8-1945 lấy vĩ tuyến 160 làm ranh giới phân chia để quân đội Anh và quân đội Trung Hoa Dân quốc làm công việc giải giáp quân đội Nhật Bản ở Đông Dương. Mà cũng phải hiểu rõ rằng Hội nghị Pốtxđam cũng nằm trong khuôn khổ của trật tự hai cực Ianta. Và nước Việt Nam mới đã bước đầu chịu tác động của trật tự này.
Với tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là quyết giữ vững nền độc lập, tự do vừa giành được, Đảng Cộng sản Đông Dương, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã vận dụng một đường lối chính trị nhạy bén và sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc vừa mềm dẻo về sách lược nên đã từng bước đẩy lùi được âm mưu của kẻ thù. Trong thời gian từ sau ngày 2-9-1945 đến trước 19-12-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Công sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh các chủ trương được sử dụng linh hoạt, phù hợp với từng giai đoạn. Cụ thể như sau:
Từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 6-3-1946, chủ trương kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam và tiến hành hòa hoãn, nhân nhượng với quân Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc với việc xác định rõ Pháp lúc bấy giờ mới là kẻ thù chính của nhân dân ta vì thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai ở Sài Gòn vào ngày 23-9-1945.
Từ sau ngày 6-3-1946 đến trước ngày 19-12-1946, chủ trương đàm phán ngoại giao với Pháp “hòa để tiến” vì trước việc thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc và ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp vào ngày 28-2-1946, trong hiệp ước có những nội dung thể hiện sự chà đạp thô bạo đối với chủ quyền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam như: “quân đội Tưởng rút về nước nhường cho quân Pháp quyền thay quân Tưởng vào miền Bắc Đông Dương để thực hiện việc giải giáp quân Nhật. Đổi lại, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Hoa, bán cho Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Tưởng một đặc khu ở cảng Hải Phòng, hàng hóa của Tưởng chuyển vận qua miền Bắc sẽ được miễn thuế.”[3] Tình thế đó đã đặt ra cho Việt Nam trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc là cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó cùng một lúc nhiều kẻ thù. Chọn con đường nào phải thật sự cân nhắc kỹ càng, phải quyết đoán nhanh chóng và không thể do dự. Và kết quả là ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã chọn con đường “hòa để tiến”.
Vào lúc 16 giờ, ngày 6-3-1946, tại ngôi nhà số 38 phố Lý Thái Tổ (Hà Nội), với sự hiện diện của đại diện các nước Trung Hoa, Anh và Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với Giăng Xanhtơni - đại diện Chính phủ Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ. Bản Hiệp định này được xem là một bước “hòa để tiến” của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và qua bản Hiệp định cho thấy cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để thực hiện độc lập - chủ quyền - thống nhất còn trải qua nhiều khó khăn gian khổ. Mặc dù Hiệp định Sơ bộ kí chưa ráo mực nhưng phía Pháp đã có những hành động phá hoại như đưa quân đánh úp bộ đội Việt Nam ở Nam Bộ và Phan Rang, lập ra “Chính phủ Nam Kỳ tự trị” với âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, …
Trước sự đấu tranh quyết liệt của Chính phủ Việt Nam đòi nhà cầm quyền Pháp nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định, một Hội nghị trù bị được tổ chức ở Đà Lạt với sự tham gia của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Nguyễn Tường Tam làm Trưởng đoàn và đoàn đại biểu Pháp do Ăngđơrê làm Trưởng đoàn diễn ra từ ngày 19-4 đến ngày 11-5-1946 nhằm trao đổi các vấn đề phải giải quyết trong cuộc đàm phán chính thức sẽ họp ở Pháp.  Tuy nhiên, các vấn đề đặt ra tại Hội nghị đã không đạt được một thỏa thuận nào do phía Pháp cố bám lập trường thực dân của họ.Theo lời mời của Chính phủ Pháp, ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng lên đường sang đàm phán chính thức với chính phủ Pháp. Hội nghị đàm phán họp tại Phôngtennơblô từ ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946 đã bàn các vấn đề như: địa vị của  Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp và những mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước, tổ chức Liên bang Đông Dương, vấn đề thống nhất ba kì và việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ, những vấn đề kinh tế, văn hóa và soạn thảo dự án Hiệp ước. Cuộc đàm phán thất bại, do phía Pháp vẫn cố giữ lập trường thực dân và ngay trong thời gian đang đàm phán họ ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng xâm lược Việt Nam, liên tiếp vi phạm các điều khoản của Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946). Chính vì thế, quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Để tỏ rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam, tranh thủ thêm thời gian hòa hoãn có lợi cho việc xây dựng đất nước, chuẩn bị thực lực để bước vào cuộc kháng chiến chắc chắn sẽ xảy ra nên trước khi lên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Mutê - đại diện của Chính phủ Pháp - bản Tạm ước vào đêm 14-9-1946. Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những “công việc khẩn cấp bây giờ”, vạch rõ những công việc quân sự, chính trị, kinh tế, … chuẩn bị kháng chiến lâu dài trên cả nước.
Tuy nhiên, trước những hành động phá hoại Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946) của thực dân Pháp nhằm đẩy nhanh cuộc chiến tranh ở Đông Dương, Việt Nam đã chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954). Thông qua Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tối 19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Trường Chinh (9-1947) ta thấy được đây là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến (1946 - 1949), Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trên các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa-giáo dục, đặc biệt là chiến thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947 (từ ngày 7-10-1947 đến ngày 19-12-1947) đã đập tan ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp và đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước sang giai đoạn mới. Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của Việt Nam có thêm nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức mới, đó là việc cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1-10-1949), các nước trong khối xã hội chủ nghĩa đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: ngày 18-1-1950, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; ngày 30-1-1950, Chính phủ Liên Xô và trong vòng một tháng sau các nước Đông Âu lần lượt công nhận, đặt quan hệ ngoại giao. Bên cạnh đó, ngày 13-5-1949, có sự đồng ý của Mỹ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve và với kế hoạch này, Mỹ đã từng bước can thiệp sâu và “dính líu trực tiếp” vào chiến tranh Đông Dương. Chiến tranh Đông Dương trong giai đoạn (1950 - 1954) ngày càng chịu sự tác động của hai phe Liên Xô và Mỹ. Tranh thủ những thuận lợi từ bên ngoài cũng như trong nước và khắc phục khó khăn xuất phát từ kế hoạch Rơve nhằm đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6-1950, Đảng Cộng sản Đông Dương và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chủ động mở chiến dịch Biên giới thu – đông (từ ngày 16-9-1950 đến ngày 22-10-1950). Với chiến thắng này, con đường liên lạc của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông, quân đội Việt Nam đã trưởng thành, giành được thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến. Bước sang giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ được đấy mạnh; lực lượng kháng chiến của Việt Nam trưởng thành to lớn và toàn diện.
Trong Đông Xuân 1953 - 1954, Pháp và Mỹ âm mưu giành một thắng lợi quân sự quyết định nhằm “kết thúc chiến tranh trong danh dự”; quân đội Việt Nam đã mở cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (7-5-1954) của quân dân Việt Nam, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã được triệu tập với sự tham gia của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Tại đây, cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt và phức tạp do lập trường các bên có sự mâu thuẫn thậm chí không đi đến tiếng nói chung: lập trường của Pháp - Mỹ thiếu thiện chí và ngoan cố, lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương, giải quyết vấn đề quân sự và chính trị cùng một lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng 2 bên và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Việt Nam đã ký Hiệp định Giơnevơ ngày 21-7-1954. Bản Hiệp định này đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp (1945 - 1954) đã kết thúc nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Mặc dù, Hiệp định Giơnevơ đánh dấu thắng lợi của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia nhưng mặt khác nó phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa 2 phe - phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột. Đặc biệt, đại biệu Mỹ ra tuyến bố không chịu sự ràng buộc của Hiệp định nhằm chuẩn bị cho cuộc xâm lược sau này.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, Mỹ đã nhanh chóng thay thế Pháp và dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm với âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Nhưng mưu đồ của Mỹ đã vấp phải ý chí quật cường và cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam
Xuất phát từ tình hình đất nước bị chia cắt, Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng từng miền với hai chiến lược cách mạng là miền Bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội; miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng, từng bước đưa cách mạng tiến lên, nhiệm vụ chung cho cách mạng hai miền, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, xác định vị trí, vai trò của cách mạng từng miền. Nhiệm vụ chung là “ Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”.
Ở miền Nam, tiến hành cuộc đấu tranh chính trị phát triển lên khởi nghĩa (từ năm 1959 - 1960) rồi chiến tranh giải phóng (từ giữa năm 1961), kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh trải qua 5 giai đoạn, lần lượt đánh bại 4 chiến lược chiến tranh thống trị và xâm lược thực dân mới của Mỹ: 1954 - 1960, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Aixenhao; 1961 - 165, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Kennơđi và Giôn xơn; 1965 - 1968, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Giôn xơn, 1969 - 1973, đánh bại cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních xơn, đã “đánh cho Mỹ cút”; 1973 - 1975, đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních xơn và Pho, đã “đánh cho ngụy nhào”.
Ở miền Bắc, thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sản xuất, lao động xây dựng, và khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân thì miền Bắc kết hợp chiến đấu với sản xuất. Miền Bắc còn làm nhiệm vụ của hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia. Miền Bắc đã giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ: lần thứ nhất bắt đầu từ ngày 5-8-1964, chính thức từ ngày 7-2-1965 đến ngày 1-11-1968; lần thứ hai bắt đầu từ ngày 6-4-1972, chính thức từ ngày 16-4-1972 đến ngày 15-1-1973.
Chiến tranh Việt Nam đến đây đã trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe: một bên là tư bản chủ nghĩa, bên kia là xã hội chủ nghĩa. Nhưng cuối cùng, mọi chiến lược của Mỹ đều bị phá sản. Tháng 1-1973, Hiệp định Pari được ký kết. Theo đó, Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân khỏi Việt Nam, cam kết không dính líu hoặc can thiệp về quân sự đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia. Nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đến năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn.
Hình 3. Tranh cổ động của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nguồn ảnh: vi.wikipedia.org
Hình 4. Việt Nam năm 1954.
Nguồn ảnh: vi.wikipedia.org
Tóm lại, khi so sánh vấn đề thống nhất đất nước ở cả hai nước (Triều Tiên và Việt nam), ta thấy có nhiều điểm tương đồng: đều từng bị thực dân đế quốc đô hộ, bị chia cắt do sự phân chia vùng ảnh hưởng của các nước lớn sau thế chiến thứ II, đều thành lập khu phi quân sự và có nhiệm vụ khác nhau (miền Bắc được phe CNXH ủng hộ, miền Nam được phe TBCN ủng hộ). Nhưng tại sao miền Nam Việt Nam, Mỹ (TBCN) cũng nhảy vào và gây ra cuộc chiến tranh lâu hơn, tốn kém hơn (1954- 1975) nhưng cuối cùng phải cam chịu thất bại, Việt Nam được hoàn toàn thống nhất. 
Nguyên nhân là do Việt Nam có những điều kiện, yếu tố mà Triều Tiên không có:
Đảng CSVN có tổ chức hoạt động ở khắp mọi miền đất nước, từ trước khi giành được chính quyền năm 1945. Trước khi Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam, ĐCSVN lãnh đạo mặt trận Việt Minh tiến hành kháng chiến trên toàn quốc, quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành và giữ gìn độc lập dân tộc từ 1930 đến 1954 đã tạo uy tín cho ĐCSVN trước nhân dân cả nước. Nhân dân cả hai miền Nam Bắc đều ủng hộ ngọn cờ độc lập dân tộc của ĐCVN.
Sau khi kí Hiệp định Giơnevơ, lực lượng Việt Minh phải tập kết ra Bắc, đổi lại cho quân Pháp tập kết vào Nam để rút về nước. Nhưng nhận thấy nhiều khả năng Mỹ sẽ can thiệp, phá hoại Hiệp định, ĐCSVN chỉ rút lực lượng vũ trang còn các đảng viên cộng sản ở miền Nam vẫn ở lại bám đất, bám dân. Nhờ vẫn còn có các lực lượng chính trị là đảng viên ở lại miền Nam Việt Nam, ĐCSVN đã nhanh chóng xây dựng được các căn cứ địa cách mạng để làm chỗ dựa cho các cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang khi có chỉ thị từ trung ương. Cũng nhờ có lực lượng tại chỗ, Việt Nam có nhiều phương tiện để đấu tranh với Mỹ và Việt Nam cộng hoà, không chỉ riêng có giải pháp quân sự. Phương châm: 2 chân, 3 mũi, 3 vùng.
2 chân: đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự
3 mũi: chính trị, vũ trang, binh vận
3 vùng: rừng núi, nông thôn, thành thị
Khi tiến hành chống Mỹ ở miền Nam, ĐCSVN đã không mở cuộc tiến công ồ ạt theo cách của Triều Tiên mà trước hết mở các tuyến đường vận tải chiến lược vào Nam để chi viện người và vũ khí, mở con đường chiến lược xuyên Trường Sơn là bước chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài để tránh gặp thất bại khi đánh trực tiếp với quân Mỹ như Triều Tiên đã làm. Việt Nam vừa đánh vừa xây dựng lực lượng cho miền Nam, ở khắp nơi trên toàn miền Nam đều có các lực lượng chính trị quân sự do ĐCSVN lãnh đạo. Chiến lược Chiến tranh nhân dân đánh thắng Pháp được Việt Nam phát triển lên nữa khi đối đầu với Mỹ.
Kết quả: sau 8 năm trực tiếp tham chiến, Mỹ vẫn không tiêu diệt được lực lượng giải phóng dân tộc do ĐCSVN lãnh đạo ở miền Nam mà lại bị thua ở nỗ lực chiến tranh cao nhất.
Sau khi Mỹ kí Hiệp định Pari (1973) rút quân về nước, lực lượng của VNCH vốn không có chính nghĩa, không nhận được sự ủng hộ của nhân dân đã nhanh chóng bị quân đội nhân dân VN và quân giải phóng miền Nam đánh tan. Trong khi đó, Đảng lao động Triều Tiên không có được mạng lưới sâu rộng, vững chắc ở Nam vĩ tuyến 38.Thêm đó, trước khi nổ ra chiến tranh Triều Tiên, các lực lượng chống lại chính phủ Lý Thừa Vãn đều đã bị trấn áp và các quân du kích do Triều Tiên cử xuống Nam vĩ tuyến 38 gần như bị quét sạch nên khi phát động chiến tranh, Triều Tiên không có lực lượng tại chỗ hỗ trợ cho quân đội. Cuộc đấu tranh ở Triều Tiên là thuần tuý đấu tranh quân sự, không có các mũi đấu tranh chính trị của quần chính ở miền Nam hỗ trợ, không có căn cứ địa ở miền Nam. Triều Tiên phát động chiến tranh theo lối nhanh, không chủ đích chuẩn bị cho tình huống đánh lâu dài nên ngay khi Mỹ can thiệp, họ đã phải chịu thiệt hại nặng nề. nếu không có quân Trung Quốc giúp đỡ có lẽ đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
Đến giai đoạn sau, vai trò quyết định chiến trường thuộc về lực lượng các nước lớn. Do vậy, Hiệp định đình chiến 1953 cũng phán ánh ý chí và sự dàn xếp cúa các nước lớn, Hàn Quốc và Triều Tiên buộc phải nghe theo.
Có thể khẳng định: do sự khác nhau về tính chất cuộc chiến và thành phần tham chiến của Việt Nam và Triều Tiên cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến Triều Tiên không thể thống nhất được hai miền.
Chiến tranh Triều Tiên có hai giai đoạn: giai đoạn 1 là cuộc chiến giữa quân đội Kim Nhật Thành ở phái Bắc đánh thẳng vào phía Nam và quân phòng thủ của Lý Thừa Vãn ( quân 2 miền Triều Tiên đánh nhau) và giai đoạn 2 là gần 100 vạn quân Trung Quốc chống nhau với các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu (quân bên ngoài đánh nhau trên bán đảo Triều Tiên).
Trường hợp Việt Nam thì khác, cuộc chiến ngay từ đầu đã diễn ra chủ yếu bằng lực lượng tại chỗ ở miền Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng miền Nam thực chất chính là Quân đội Nhân dân Việt Nam của miền Nam Việt Nam. Thành phần gồm lực lượng quân sự, vũ trang chống Pháp của miền Nam không ra Bắc tập kết sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, kết hợp với bộ phận tăng viện miền Bắc (phần lớn là những người miền Nam đã tập kết ra Bắc, quay lại quê hương đánh Mỹ nên có nhiều thuận lợi).
Trường hợp Việt Nam không mang tính cục bộ như Triều Tiên, không phải quân đội miền Bắc giao tranh với quân đội miền Nam như 1 giai đoạn của Triều Tiên mà ngay từ đầu đã mang bản chất toàn quốc với sự tham chiến chống Mỹ của cả nước. Thực tế là miền Nam đánh Mỹ, miền Bắc là hậu phương vững chắc, tổ chức chi viện, bổ sung cho miền Nam.
Sự ủng hộ của nhân dân cũng là sự khác nhau quan trọng:
Hầu hết những cuộc biểu tình chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam trước 1975, giới trẻ, thanh niên, sinh viên Sài Gòn và cả miền Nam đề giương cao băng rôn, biểu ngữ, ca ngợi Đảng lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giương cao quốc kì, cờ Đảng…
Tại miền Nam Việt Nam, đa số người dân có cảm tình với Đảng, Mặt trận, tin vào Bác Hồ. Người dân đào hầm nuôi giấu cán bộ cách mạng và cho con em mình ra chiến khu, vùng giải phóng đi theo kháng chiến.
Trong khi đó, có lẽ chưa bao giờ có cuộc biểu tình nào ở Hàn Quốc mà có biểu ngữ hay thái độ ủng hộ Kim Nhật Thành, Đảng Lao động Triều Tiên hay CHDCND Triều Tiên…
Ba đường hầm Kim Nhật Thành cho đào xuyên vĩ tuyến 38 để đột nhập vào Nam để đưa cán binh qua nằm vùng đa số đều bị lự lượng cảnh sát, mật thám Hàn Quốc và CIA tiêu diệt. Bắc Triều Tiên không có bất cứ cơ hội nào để xây dựng căn cứ, cơ sở ở Nam Triều Triều Tiên, đó là do họ không có nền tảng quần chúng, không hội tụ được lòng dân. Người dân Hàn cũng không đưa con em mình đi theo CHDCND Triều Tiên.
Người viết: Xuân Giang - Đào Huệ 


Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Anh Thái (Chủ biên - 2009), Lịch sử thế giới hiện đại, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, trang 224.
[2] Nguyễn Anh Thái (Chủ biên - 2009), Sđd, trang 328 - 329.
[3] Lê Mậu Hãn (Chủ biên - 2001), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập III (1945 - 2000), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, trang 39 - 40.

Nhận xét