Hiện nay có nhiều người cho rằng cuộc chiến tranh Triều
Tiên không khác bao nhiêu với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam, nếu có khác
chăng thì chỉ là tiểu tiết.
Khách quan nhìn lại những dữ kiện thực tế lịch sử thì thấy
rằng bản chất của chiến tranh Mỹ – Việt và chiến tranh liên Triều là không
giống nhau. Bối cảnh lịch sử và các diễn biến lịch sử khách quan trên đất nước
Việt Nam và trên bán đảo Triều Tiên cũng rất khác nhau, và những khác biệt đó
không hề nhỏ chút nào. Đó là những khác biệt lớn, chứ không hề là tiểu tiết.
1. Quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng và liên quân Anh – Pháp đi
vào giải giáp quân Nhật là đi vào một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã độc
lập, là đi vào một quốc gia có chủ quyền. Quân Liên Xô và quân Hoa Kỳ đi vào
giải giáp quân Nhật là đi vào một bán đảo Triều Tiên chưa có độc lập chủ quyền.
Sở dĩ như vậy là vì uy danh của Kim Nhật Thành và Đảng Lao
động Triều Tiên không mang tính chất toàn quốc, thế và lực của họ không lan
rộng ra được cả nước. Khi phát xít Nhật thua Đồng minh thì lực lượng Kim Nhật
Thành vẫn còn rất yếu, chỉ được lòng dân một cách hạn chế, mang tính chất khu
vực, địa phương, cục bộ, vì vậy họ không có cái thế và lực để tuyên bố độc lập
như chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Việt Minh và Quân
đội Nhân dân Việt Nam đã làm ở Việt Nam. Họ không đủ sức để làm nên được một
cuộc Cách mạng tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật như ở Việt Nam.
Và khi Liên Xô đem quân vào Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ đem quân
vào Nam Triều Tiên thì bán đảo Triều Tiên khi đó vẫn chưa có một nước, chưa có
một quốc gia có chủ quyền. Còn Việt Nam thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tuyên
ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước khi quân Đồng minh
tiến vào.
Việt Nam thành lập Nhà nước, bầu cử Quốc hội, hoàn thành
Hiến pháp, thành lập Chính phủ, tuyên bố chủ quyền độc lập và thống nhất trên
khắp 3 miền Bắc – Trung – Nam trong thời gian 1945-1946, trong lúc “Quốc gia
Việt Nam” và “Việt Nam Cộng hòa” của Pháp – Mỹ chưa hề tồn tại, và mãi về sau
mới được Pháp – Mỹ dựng lên.
Trong kháng chiến chống Pháp, ban đầu tự tin với sức mạnh
của một đội quân nhà nghề có trình độ phát triển, cấp độ văn minh khoa học kỹ
thuật cao hơn Việt Nam nhiều thế kỷ, thực dân Pháp tưởng rằng chỉ cần vài tuần,
hay lâu lắm thì cũng chỉ vài tháng là sẽ “làm cỏ” Việt Minh, Đảng, và chính phủ
Hồ Chí Minh, thôn tính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy lại thuộc địa Đông Dương.
Nhưng sau khi Việt – Pháp giao tranh với nhau đã 4 năm thì Pháp bắt đầu thấy
không ổn, tới năm 1949, Pháp bắt đầu chiến lược “Da vàng hóa chiến tranh”, dựng
lên “Nam Kỳ quốc” (Nguyễn Văn Thinh đứng đầu), “Quốc gia Việt Nam” (tự xưng là
“chính phủ Quốc gia”, do Bảo Đại và Nguyễn Văn Xuân đứng đầu), tiền thân của “nước
Việt Nam Cộng hòa”.
Trên bán đảo Triều Tiên thì Lý Thừa Vãn ở Nam Triều Tiên
thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc (Còn gọi là Cộng hòa Triều Tiên) vào ngày
15/8/1948. Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Triều Tiên vào ngày 9/9/1948.
Như vậy, ở Việt Nam năm 1949 là giặc xâm lược Pháp đã dựng
lên những “quốc gia” lên trên một quốc gia có chủ quyền, đã độc lập từ năm
1945, vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và luật pháp Việt Nam đã ban hành và có
hiệu lực từ năm 1946. Trắng trợn hơn là thực dân Pháp đã làm những điều đó ngay
trong lúc họ đang xâm lược Việt Nam và hai nước đang giao tranh với nhau.
Còn ở Triều Tiên thì cả hai phe đều lập quốc rất trễ và xấp
xỉ cùng thời gian với nhau, và Đại Hàn Dân Quốc đã được thành lập trước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên gần 1 tháng.
Như vậy là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tiền thân của nước
CHXHCN Việt Nam ngày nay) và CHDCND Triều Tiên có sự khác nhau về tính chính
danh. Danh có chính thì ngôn mới thuận. Sự chính danh đưa tới sự chính ngôn để
có được lòng dân và có sự danh chính ngôn thuận, làm sáng tỏ chính nghĩa của
mình. Đó là một trong những sự khác biệt to lớn giữa hai bên, chứ không hề là
tiểu tiết.
2. Ý chí quốc gia và tính nhất quán của chính phủ quốc gia đó
trong vấn đề ngoại giao cũng nói lên được bản chất của sự việc.
Ở đây chúng ta thấy ý chí và sự nhất quán của chính phủ và
Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc chưa bao giờ công nhận cái
gọi là Việt nam cộng hòa và nói chuyện gì với họ, chưa bao giờ tôn trọng và xem
ngụy quyền ở Sài Gòn là một thực thể ngang hàng với mình, chưa bao giờ xem họ
có tư cách nói chuyện, đàm phán ngang hàng với mình, chưa bao giờ xem họ có tư
cách của một quốc gia, nhà nước, chính phủ thật sự. Tóm lại là chưa bao giờ coi
họ ra gì! Việt Nam dân chủ cộng hòa muốn nói chuyện, muốn giải quyết vấn đề gì,
muốn đề xuất việc gì thì tìm Pháp – Mỹ, những người có quyền thật sự mà nói.
Trong khi đó, trên bán đảo Triều Tiên vào thập niên 1970
quan hệ hai nước dần được cải thiện, và hai bên bán đảo Triều Tiên cùng công
nhận sự hợp pháp của nhau. Năm 1976, Bình Nhưỡng đã chấp nhận lời đề nghị của
Hán Thành thành lập Ủy ban Hỗn hợp Nam Bắc để giải quyết vấn đề tái hợp hai
nước, thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng biện pháp hòa bình. Đại biểu, lãnh
đạo, quan chức của hai quốc gia, kể cả Kim Nhật Thành và các tổng thống Hàn
Quốc đã gặp gỡ nhiều lần tại thủ đô của hai bên.
Thử hình dung chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam đi gặp Bảo
Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và đi nói chuyện với các
công cụ chính trị, công cụ chiến tranh của Pháp – Mỹ, nghĩ đến cũng đã thấy
buồn cười.
Đến năm 1991 thì cả CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc đã công
nhận lẫn nhau để chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc cùng một lúc. Mặc dù năm
1948 Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết công nhận Đại Hàn Dân Quốc ngay sau khi Lý
Thừa Vãn tuyên bố lập quốc, nhưng ngày 17/9/1991 Hàn Quốc mới chính thức được
kết nạp trở thành thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, cùng ngày với CHDCND
Triều Tiên. Việc này cho thấy Kim Nhật Thành (lúc này vẫn còn cầm quyền) và
CHDCND Triều Tiên đã chính thức thừa nhận sự chính danh của Đại Hàn Dân Quốc.
Tóm lại, Việt Nam và CHDCND Triều Tiên khác nhau ở tính
chính danh và ý chí nhất quán, trước sau như một làm sáng tỏ sự chính danh đó,
cũng như Hàn Quốc và ngụy quyền ở Sài Gòn khác nhau về tính chất hợp pháp.
3. Khác nhau về tính chất cuộc chiến và thành phần tham chiến.
Chiến tranh Triều Tiên có 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là cuộc
chiến giữa quân đội Kim Nhật Thành từ phía Bắc đánh thẳng vào phía Nam và quân
phòng thủ của Lý Thừa Vãn. Quân đội ngoại bang không có nhiều vai trò trong
giai đoạn 1 này. Trong thời gian này quân Liên Xô và quân Mỹ đều đã rút khỏi.
Giai đoạn 2 là gần 100 vạn quân Trung Quốc chống nhau với
các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu. Lúc này các chóp bu lãnh đạo
CHDCND Triều Tiên đều không ở trong nước mà đang lưu vong ở Mãn Châu, Trung
Quốc, còn quân đội Triều Tiên về cơ bản đã tan rã. Quân đội Hàn Quốc trong giai
đoạn 1 cũng đã không còn bao nhiêu thực lực, do đó không có vai trò gì nổi bật
trong giai đoạn 2.
Như vậy giai đoạn 1 là quân trong nhà chống nhau và mang
tính chất cục bộ. Giai đoạn 2 là quân bên ngoài đánh nhau trên bán đảo Triều
Tiên.
Trường hợp ở Việt Nam thì khác, cuộc chiến ngay từ đầu đã
diễn ra chủ yếu bằng lực lượng tại chỗ ở miền Nam là Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang
chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực chất chính là Quân
đội Nhân dân Việt Nam của miền Nam Việt Nam. Thành phần của quân đội này bao
gồm lực lượng quân sự, vũ trang chống Pháp của miền Nam “trốn” không tập kết ra
Bắc, mà bí mật ở lại quê quán sau hiệp nghị Genève 1954, kết hợp bộ phận tăng
viện từ miền Bắc (mà trong số này phần lớn chính là những người miền Nam đã tập
kết ra Bắc và bây giờ trở về quê hương đánh Mỹ, những người này đã quen thuộc,
thông thạo địa hình, đường xá quê nhà, có sẵn các mối quan hệ thân thiết, quen
thuộc, do đó sẽ tác chiến du kích thuận lợi hơn) và lực lượng chiêu mộ tại chỗ
ở miền Nam, trở thành lực lượng quân sự của Mặt trận (Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam) thực hiện mục tiêu chống Mỹ của Đảng và Nhà nước Việt
Nam ở miền Nam Việt Nam.
Như vậy, trường hợp ở Việt Nam không mang tính cục bộ như ở
Triều Tiên, không phải là quân đội ở phía Bắc giao tranh với quân đội ở phía
Nam như giai đoạn 1 trên bán đảo Triều Tiên. Chiến cuộc ở Việt Nam ngay từ ban
đầu đã mang bản chất toàn quốc, với sự tham chiến chống Mỹ của cả nước. Thực tế
chiến cuộc đã cho thấy là miền Nam đánh Mỹ trực tiếp, miền Bắc chi viện và bổ
sung. Lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, đảng viên cấp cao thì có cả người Nam và người
Bắc.
Trong những bộ phim tài liệu, chương trình kỷ niệm về thương
binh, liệt sĩ, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến
chống Mỹ đã cho thấy rằng đa số họ là những người quê quán ở miền Nam, nói
giọng Nam rặt. Ngay cả lực lượng bổ sung từ miền Bắc cũng thường là những người
miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ chỉ về lại quê hương miền Nam hoạt động và
chiến đấu chống ngoại xâm. Do đó cuộc chiến này do lực lượng tại chỗ ở miền Nam
chiến đấu trực tiếp, do nhiều người miền Nam chỉ huy, miền Nam trực tiếp chống
Mỹ và tổn thất nhiều nhất.
Thống kê đã cho thấy số phụ nữ được phong tặng danh hiệu
“Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (theo tiêu chuẩn có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân,
chồng, hoặc con trai trong gia đình) ở miền Nam nhiều gần gấp đôi ở miền Bắc.
Miền Nam có 29.220 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, miền Bắc có 15.033 Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, cho thấy một thực tế là quân đội, đảng viên, cán bộ miền Nam đã hy
sinh nhiều hơn miền Bắc.
Nhiều cán bộ, đảng viên, lãnh đạo, tướng lĩnh, quân nhân
làm việc, công tác ở ngoài Bắc trong thời gian đó cũng chính là từ miền Nam.
Nhiều trường miền Nam đã được xây dựng ở miền Bắc để nuôi dạy các “hạt giống
đỏ” thiếu nhi miền Nam.
Tóm lược lại, theo hiệp định Genève, Quân đội Nhân dân Việt
Nam ở miền Nam tập kết ra Bắc, tuy nhiên có một bộ phận rất lớn đã “trốn” tập
kết mà bí mật ở lại nơi chôn nhau cắt rốn, hoạt động cách mạng. Đồng thời, ngụy
quân miền Bắc của thực dân Pháp cũng tập kết vào Nam. Sau đó là cả nước chống
Mỹ. Như vậy, cuộc chiến ở Việt Nam mang tính toàn quốc chứ không mang tính vùng
miền như ở bán đảo Triều Tiên.
4. Yếu tố lòng dân cũng là một sự khác nhau quan trọng.
Trong đa số những cuộc biểu tình chống Mỹ ở miền Nam Việt
Nam trước năm 1975, giới trẻ, thanh niên, sinh viên Sài Gòn và cả miền Nam
giương cao những băng rôn, biểu ngữ ủng hộ, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, giương cao quốc kỳ, cờ
Mặt trận, cờ Đảng (cờ búa liềm), giương cao hình Bác Hồ, hình đại tướng Võ
Nguyên Giáp…
Trong khi đó xưa nay chưa hề có một cuộc biểu tình nào ở
Hàn Quốc mà có được 1 biểu ngữ, khẩu hiệu nào tỏ thái độ ủng hộ Kim Nhật Thành,
Kim Chính Nhật, gia tộc họ Kim, Đảng Lao động Triều Tiên hay CHDCND Triều Tiên,
không thấy ai giơ cao quốc kỳ CHDCND Triều Tiên hay cờ Đảng Lao động Triều
Tiên, cũng không ai giơ lên hình Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật.
Tại Hàn Quốc, một bộ phận tuy có thể là không ưa Mỹ, không
ưa chính phủ Hàn Quốc, nhưng họ không hoàn toàn theo CHDCND Triều Tiên. Họ
không đào hầm nuôi giấu các điệp viên từ Bình Nhưỡng, họ không cầm súng bạo
động chống lại Hàn Quốc, Mỹ, Liên Hiệp Quốc.
Trong thập niên 1950, Kim Nhật Thành đã từng cho đào rất
nhiều đường hầm xuyên qua vĩ tuyến 38 để đột nhập vào Nam. Trong đó có 3 đường
hầm được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Nhiều cán binh Bắc Triều Tiên
được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám
của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt. Bắc Triều Tiên không len lỏi, trà trộn vào nổi,
không xây dựng được căn cứ, cơ sở nào ở Nam Triều Tiên, đó là do họ không có
nền tảng quần chúng, không có đủ lòng dân, không hội đủ yếu tố “nhân hòa” như ở
miền Nam Việt Nam.
Người dân Hàn cũng không có gởi con em, con cháu đi theo
CHDCND Triều Tiên. Tại miền Nam Việt Nam thì đa số người dân miền Nam có cảm
tình với Mặt trận, ủng hộ Đảng, tin vào Bác Hồ, bà mẹ miền Nam gởi con ra Bắc
đã dặn: “Con ra thưa với cụ Hồ, Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao”. Người dân
Nam Việt Nam đào hầm nuôi giấu cách mạng và cho con em, con cháu mình ra bưng
biền, ra chiến khu, ra những vùng giải phóng đi theo kháng chiến.
Đó là những sự khác biệt thấy rõ về lòng dân, lòng dân ở
Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên.
5. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hồ Chí Minh
có cơ sở lịch sử và nhiều chứng cứ, văn kiện pháp lý cho thấy tính chính danh,
chính thống rõ như ban ngày và không thể tranh cãi của mình. Trong khi đó Nhà
nước CHDCND Triều Tiên thiếu những cơ sở lịch sử đủ mạnh (như đã phân tích ở
trên) và còn thiếu cả những chứng cứ, văn kiện pháp lý nào cho thấy tính chính
thống, chính danh của họ.
Năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, Việt
Nam giành lại được độc lập, với quốc hiệu chính thức là Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Năm 1946, cả nước tổng tuyển cử Quốc hội, bầu ra Quốc hội khóa I và hoạt
động liên tục một cách hợp hiến, hợp pháp cho tới ngày nay.
Các văn bản, văn kiện có giá trị pháp lý sau đó như: Hiến
pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946, sắc lệnh 229/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh
quy định các cơ quan quân sự trên toàn cõi Việt Nam (bao gồm ở miền Nam Việt
Nam) đều trực thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam DCCH vào tháng 11/1946, tuyên cáo 12
khu hành chính của Việt Nam DCCH (trong phạm vi cả nước) cũng vào tháng
11/1946, và hiệp định Genève 1954. Tất cả những văn kiện pháp lý đó đều minh
định một nguyên tắc cơ bản: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước độc lập
và thống nhất từ Bắc chí Nam.
Những dấu ấn lịch sử đó, những vật chứng lịch sử đó đã xuất
hiện trong lúc trên đất Việt không hề tồn tại bất kỳ một quốc gia, nhà nước,
chính thể, chính quyền, ngụy quyền nào khác, và cả sau này cũng không có một
quốc gia, nhà nước, chính thể nào khác được bầu ra theo một thể thức như vậy,
mà mang tính đại chúng, mang tính quốc gia trên cả nước, và đậm đặc ý chí toàn
dân đến như vậy.
Ngay cả hiệp định Genève về Đông Dương cũng chỉ công nhận
làn ranh giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử, tạm chia
làm 2 vùng tập trung quân sự cho 2 bên tập kết chứ không nói gì đến vấn đề thay
đổi lãnh thổ. Theo hiệp định này, vĩ tuyến 17 không phải là làn ranh có ý nghĩa
về lãnh thổ, chính trị, hay địa lý. Hiệp nghị này không có ý nghĩa chia đôi đất
nước về lãnh thổ và chính trị.
Sau đó, như mọi người đã biết, Mỹ đã từ hậu trường nhảy ra
sân khấu chính trị, xuyên tạc và phủ nhận hiệp định Genève về Đông Dương, ngăn
cản việc thi hành cuộc tổng tuyển cử tự do, ai có hành động tổ chức tổng tuyển
cử là bắn bỏ, thậm chí ai nói gì về việc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước là
bị vu cáo là “cộng sản”, là “Việt Cộng”, là đang tuyên truyền tiếp tay cho “Bắc
Việt” và trấn áp, bắt bớ, giam cầm, tra khảo, tra tấn.
Người Mỹ ém nhẹm, xuyên tạc những nội dung chính của hiệp
định, phá hoại các điều khoản chính trong hiệp định, và nghiêm trọng nhất là
điều khoản: “đường ranh giới quân sự là tạm thời và không thể diễn giải bất cứ
bằng cách nào đó là một biên giới phân định về chính trị hay đất đai”. Đây là
những dữ kiện lịch sử khách quan không thể nào chối bỏ.
Hiến pháp năm 1959 cũng nhắc lại và nhấn mạnh những nguyên
tắc trên. Như vậy, bất kỳ thế lực bên ngoài nào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam và
tạo ra những “quốc gia” lên trên một quốc gia đã tồn tại hàng ngàn năm, dựng
lên những “nhà nước” lên trên một nhà nước đã thành lập từ năm 1945, lập ra
những “quốc hội” lên trên Quốc hội khóa I đã bầu cử toàn quốc từ năm 1946 thì
đều là vi phạm luật pháp Việt Nam, xâm phạm và chà đạp lên chủ quyền của Việt Nam.
Hãy hình dung nếu bây giờ Trung Quốc chiếm đóng miền Bắc
Việt Nam rồi dựng lên một “nước Cộng hòa Nhân dân Việt Nam”, đưa một hậu duệ
nào đó của Hoàng Văn Hoan lên làm “chủ tịch anh minh”, “thủ tướng anh minh”.
Hay Hoa Kỳ chiếm đóng miền Nam Việt Nam rồi tái lập một “nước Việt Nam Cộng
hòa”, hoặc giả thành lập một “nước Dân chủ Việt Nam”, “nước Việt Nam Tự do” nào
đó, đưa Đỗ Hoàng Điềm, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Hữu Chánh, Lý Tống… về làm “tổng
thống anh minh” trên đất Việt Nam, thì có phải là vi phạm luật pháp Việt Nam,
xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam hay không?
Bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên diễn ra
gần như cùng thời điểm với nhau, và chỉ diễn ra trong phạm vi Nam – Bắc, trong
phạm vi thuộc vùng kiểm soát, quản lý của hai bên. Kim Nhật Thành có gởi một
đoàn vài chục nhân viên vượt vĩ tuyến vào Nam “lấy lá phiếu bầu cử” nhưng chỉ
có ý nghĩa tượng trưng, vì mấy chục người này vào Nam vừa lộ diện ra là người
thì bị cảnh sát, quân đội của Lý Thừa Vãn đuổi bắn, người thì sa vào tay đặc vụ
của Lý. Không còn bao nhiêu người sống sót trở về Bắc.
Như vậy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và chứng cứ pháp
lý rõ ràng. Triều Tiên thì cơ sở lịch sử yếu và thiếu các chứng cứ pháp lý
thuyết phục.
6. Việt Nam chủ động đấu tranh để thi hành tổng tuyển cử, Mỹ
không dám để cho tổng tuyển cử được diễn ra, trái lại còn dùng bạo lực đàn áp,
bắt giữ, thảm sát và gây ra nhiều tội ác để chống tổng tuyển cử. Tình hình trên
bán đảo Triều Tiên thì ngược lại, CHDCND Triều Tiên tránh né vấn đề tổng tuyển
cử và từ chối tổng tuyển cử, trong khi Lý Thừa Vãn thì đề nghị tổng tuyển cử.
Tại Việt Nam, Mỹ bác bỏ tổng tuyển cử theo hiệp định Genève
1954 vì CIA biết chắc Hồ Chí Minh sẽ thắng. Tại bán đảo Triều Tiên, vào tháng
11/1947, Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành tổng tuyển cử
tại Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của một ủy ban của Liên Hiệp Quốc. Lý Thừa Vãn yêu
cầu tổng tuyển cử vì tin rằng rằng mình sẽ thắng do Nam Triều Tiên có dân số
gần gấp đôi Bắc Triều Tiên. Kim Nhật Thành cũng nhận ra bất lợi này nên đã từ
chối.
Thất bại trong đề xuất tổng tuyển cử đưa tới việc hai bên
tự thành lập quốc gia ở hai đầu Nam – Bắc vào năm 1948.
7. Bản chất, lai lịch của những lãnh đạo chính quyền và sĩ quan
quân đội của Hàn Quốc và của Sài Gòn là khác nhau.
Các tướng tá, sĩ quan Hàn Quốc hiếm có người nào từng phục
vụ cho đế quốc Nhật trong lúc người Nhật đô hộ bán đảo Triều Tiên. Đa số họ
cũng là những người chống Nhật, từng phục vụ trong Quân Giải phóng Triều Tiên
(Hàn Quốc Quang phục quân). Còn các chóp bu, tướng tá, sĩ quan của chính quyền Sài Gòn đa phần đã từng phục vụ cho thực dân Pháp trong thời Pháp
thuộc.
Họ có Pháp tịch, nói tiếng Pháp, đeo huân chương Pháp, học
ở Pháp, được Pháp phong chức, trả lương, đào tạo, bảo bọc. Nhiều gia đình có
“thành tích” làm việc cho thực dân Pháp nhiều đời, đàn áp nghĩa quân rất tàn
ác. Có cả những kẻ nói tiếng Pháp thạo hơn cả tiếng Việt (như tướng Nguyễn Văn
Hinh). Có cả những kẻ chỉ huy ngụy quân trong trận Điện Biên Phủ bên cạnh chủ
Pháp, phất cờ Tam tài, hát quốc ca Pháp (như tướng Phạm Văn Phú). Quân đội
“Việt Nam Cộng hòa” được xây dựng và phát triển từ quân đội “Quốc gia Việt Nam”
thời Pháp, từ lực lượng ngụy quân nòng cốt và những tay sai đắc lực của thực
dân Pháp.
Gs. Nguyễn Mạnh Quang, là giáo sư khoa Sử – địa ở miền Nam
Việt Nam trước năm 1975, hiện nay là giảng viên khoa Lịch sử Hoa Kỳ tại Sở Học
Chánh Tacoma, bang Washington, Hoa Kỳ, đã nhìn nhận:
“Thật tình mà nói, giới lãnh đạo quân sự và chính trị của
hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng hòa là một lũ tay sai của Pháp đào
tạo để phục vụ cho thực dân Pháp cho nên trong máu họ mang tính tay sai lúc nào
cũng nhìn trước ngó sau ông chủ có vừa lòng hay phật ý cho nên khi nắm quyền
lãnh đạo ở Sàigòn nhưng mắt cứ để ý ở Washington, Paris, Rome. Trong số này
cũng có nhưng rất hiếm người có lòng với quốc gia dân tộc thì lại bị tập đoàn
Ngô Đình Diệm loại bỏ bằng nhiều hình thức. Trong quân đội và hành chánh có
nhiều người trẻ được đào tạo sau khi thực dân Pháp cáo chung, họ có tài có tâm
huyết song không phải là cấp chỉ đạo mà là những kẻ thừa hành thì làm được gì
vì quyền cao chức trọng nằm trong tay đám tay sai của thực dân Pháp đào tạo
quyết định”.
Yếu tố con người cũng rất quan trọng. Bản chất của từng con
người trong bộ máy đó, chế độ đó nói lên nhiều điều.
8. Khác nhau về tính tiếp nối của cuộc chiến chống ngoại xâm.
Mỹ là kẻ hậu thuẫn, giúp đỡ, viện trợ, và chi trả cho thực
dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam từ năm 1954, một cuộc chiến mà tuyệt đại đa
số các nhà sử học Pháp, Mỹ và quốc tế, và cả chính giới Pháp thú nhận rằng đó
là một cuộc chiến nhằm tái chiếm thuộc địa.
Hơn 80% chiến phí mà quân đội Pháp sử dụng là của Mỹ, phần
lớn vũ khí hiện đại mà quân Pháp sử dụng trong cuộc chiến Đông Dương là do Mỹ
sản xuất và viện trợ. Như vậy cuộc chiến này là cuộc chiến của “quân đội Pháp –
đô la Mỹ”. Mỹ ngụy biện rằng mình vì “sợ Cộng sản” nên mới giúp Pháp đánh Việt
Nam, sự thật là Mỹ đã bỏ tiền cho Pháp xâm lược Việt Nam, tái chiếm thuộc địa
Đông Dương và sau đó ăn chia với nhau lợi ích ở đây.
Như vậy, việc Mỹ thay Pháp nhảy vào Đông Dương là việc dễ
hiểu, đơn giản là Mỹ không cam lòng, không chịu thua, không muốn nhả ra miếng
mồi béo bở Đông Dương. Việt Nam và cả Đông Dương có tài nguyên thiên nhiên và
tài nguyên con người rất phong phú, nhân công rẻ và làm lụng cần cù, siêng
năng, được việc. Và khống chế được VN thì coi như khống chế được bán đảo Đông
Dương, Đông Nam Á, và toàn bộ khu vực.
Do đó nhiều nhà sử học Việt Nam và quốc tế đã nhận định:
Cuộc chiến 1945-1954 là cuộc chiến Việt Nam chống Pháp – Mỹ, và cuộc chiến
1954-1975 là cuộc chiến Việt Nam chống toàn Mỹ, chỉ còn lại một mình Mỹ.
Trong khi đó, tại bán đảo Triều Tiên, Mỹ không ủng hộ, hỗ
trợ, viện trợ cho đế quốc Nhật xâm lược Triều Tiên, trái lại họ cũng chống Nhật
do những xung đột vì lợi ích địa chính trị. Nhật là kẻ đã đô hộ, nô dịch Triều
Tiên gần nửa thế kỷ. Còn Pháp là kẻ đã đô hộ, nô dịch Việt Nam gần 1 thế kỷ.
Ban Biên tập sưu tầm
Nhận xét
Đăng nhận xét