“Ngòi nổ” của cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh

Mầm mống phân tranh giữa hai họ Trịnh và Nguyễn đã bắt đầu từ khi triều Lê Trung Hưng được thành lập, nhất là sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc mất, quyền hành về cả tay con rể là Trịnh Kiểm. Hai con trai của Nguyễn Kim, một người là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hại chết vì sợ sẽ giành quyền của mình, người còn lại là Nguyễn Hoàng lo sợ xin vào trấn giữ Thuận Quảng từ năm Mậu Ngọ (1558), một vùng đất xa xôi ở phía Nam và âm thầm xây dựng thế lực riêng. Sau một thời gian dài chuẩn bị, đến đời con của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức xong việc phòng thủ ở phương Nam, họ Nguyễn mới tỏ ý bất tuân mệnh lệnh của vua Lê mà thực ra là dần thể hiện sự chống đối kháng với họ Trịnh.
Đào Duy Từ. Nguồn: vtc.vn

Chúa Trịnh Tráng cũng biết điều đó nhưng vẫn cho người mang sắc dụ dưới danh nghĩa vua Lê Thần Tông đưa vào Nam đốc thúc chúa Nguyễn phải nộp thuế từ 3 năm về trước, sự kiện này diễn ra vào tháng giêng năm Đinh Mão (1627). Sách Đại Việt sử ký toàn thư thì cho biết bài sắc dụ này có nội dung như sau:
 Bậc nhân tài hào kiệt, có thể cùng nhau mưu việc lớn lao; đấng trượng phu lập chí, quý ở chỗ biết rõ thời thế. Đậu Dung từ đất Hà Tây về hàng, nổi tiếng ở đời Hán; Điền Hưng đem đất Nguỵ Bác quy thuận, công lao ở đời Đường. Từ xưa, các hiền nhân, quân tử, trí sáng hiểu thời, mới dựng nên công nghiệp ở trên đời, để lại tiếng thơm cho hậu thế.
Nước nhà ta, ứng ý trời, thuận lòng người, thừa thời cơ, mở vận lớn. Thái Tổ Cao Hoàng Đế lấy vũ công bình định thiên hạ, thực nhờ ở công thần giúp đỡ, các vua thánh lấy văn giáo làm nên thái bình, cũng nhờ đại thần cũ khuông phù. Cho nên mới giữ nước được lâu dài. Nào ngờ nửa đường vận bĩ, nguỵ Mạc tiếm ngôi. May mà vận trời chưa thay đổi, lòng người theo triều xưa. Trang Tông Dụ Hoàng Đế nổi dậy ở đất miền Tây, tổ của người là Chiêu Huân Tĩnh Công (tức Nguyễn Kim- TG) hiệp sức với Minh Khang Thái Vương (tức Trịnh Kiểm- TG) xoay chuyển đất trời, sử xanh để tiếng. Vận trời trở lại hanh thông, nước nhà một phen tái tạo. Thế Thông Nghị Hoàng Đế về ngự ở Trung Đô, cha của người là Cẩn Nghĩa Công (tức Nguyễn Hoàng- TG) giúp Thượng phụ Bình An Vương (tức Trịnh Tùng- TG) ngày ngày dự bàn việc nước, lo kế dẹp yên thiên hạ, sử sách còn ghi công. Chỉ vì kẻ nghịch thần là bọn Ngạn, Khuê dám bất trung chống lại, nổi quân làm phản, trong nước rối động.
Cha con ngươi có ý muốn giữ trọn thân danh, thân thế bỏ về trấn cũ. Khi ấy nhờ được Đô nguyên soái tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương trung thành vì nước, nhân nghĩa ra quân, dẹp hết nghịch tặc, thiên hạ nhờ đó lại được bình yên, đến gần 30 năm. Không ngờ tên phản nghịch Xuân, bản chất như sài lang, lòng dạ tựa muông thú, dùng răng chuột để khoét vách, đem nọc độc ra hại quân, khiến cho lòng người dao động. Nhờ được Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương (tức Trịnh Tráng- TG) tư chất nhân hậu, chí khí anh hùng và các đại thần thân huân văn võ, đồng lòng hiệp sức, cứu tai nạn của vua cha, giúp gian nguy xã tắc, quét sạch bọn Mạc, khôi phục Đô thành, trong ổn ngoài yên, gần vui xa phục.
Hiện nay, thời buổi có nhiều việc đáng làm, dân chúng đều trông mong thịnh trị. Nếu người biết nghĩ đến nghĩa vua tôi trên dưới, nhớ tới công cha ông cần lao, mà suy xa, xét kỹ, kính cẩn trung thành, quy phục triều đình thì Trẫm sẽ đối đãi bằng lễ đặc biệt; phong cho tước thượng công. Ngươi gắng giúp nhà ta, để nhà vua được mạnh, thì thân danh của ngươi cùng vinh hiển với nước, đời đời hưởng tước lộc, đời đời là trung trinh, khoán thư chứa vào hòm vàng, nhà đá, lưu truyền tới khi sông cạn, đá mòn, mãi mãi không bao giờ cùng vậy! Ngày nào nhận được dụ này, người hãy chỉnh đốn tướng sĩ, voi ngựa, thuyền ghe, tới Kinh sư để lạy chào cho hợp với nghĩa làm tôi. Nhược bằng vẫn chấp nê, đem quân chống mệnh, thì oai trời giáng xuống, chỉ trong chớp mắt, núi cao cũng biến thành đất bằng. Theo mệnh thì lành, trái mệnh thì dữ, ngươi hãy suy nghĩ”.
Chuyện kể rằng sau khi nhận được sắc dụ, chúa Nguyễn rất bối rối bèn họp triều thần hỏi mưu kế đối phó. Đào Duy Từ đã dâng kế và được chúa Nguyễn chuẩn y cho làm một cái mâm đồng hai đáy, khoảng giữa để sắc thư đã nhận, trên mâm sắp phẩm vật đem ra Thăng Long và sai Lại Văn Khuông làm chánh sứ chuyến này đồng thời dặn dò một số điều phòng khi ứng đối. Khi đến kinh, Lại Văn Khuông vào yết kiến dâng lễ vật làm ra vẻ rất cung kính nên được hậu đãi nhưng theo kế của Đào Duy Từ, cả đoàn tùy tùng cùng với Văn Khuông bí mật  trốn về Nam bằng đường thủy.
Chúa Trịnh nghe tin đó lấy làm nghi ngờ mới sai soạn phẩm vật, thấy mâm hai đáy liền cho tách mâm thì thấy tờ sắc dụ trước kèm theo một tấm thiếp viết bốn hàng chữ:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.
Dịch nghĩa:
Cái xà mâu không có mấu,
Tìm không thấy dấu.
Yêu rơi cả lòng ruột,
Sức đến thì cùng đánh.

Phùng Khắc Khoan. Nguồn: wki.org

Chúa Trịnh Tráng và cả triều thần đọc không hiểu nên phải nhờ đến Phùng Khắc Khoan giải nghĩa thì biết đó là chơi chữ. Theo đó thì các câu được triết tự như sau: Chữ “mâu” không có mấu tức là cái phẩy thì thành chữ dư (ta); chữ “mịch” mà không có chữ kiến thì thành chữ bất (không); chữ “ái” mà rơi mất lòng ruột (tức là chữ lâm) thì thành chữ “thụ” (nhận). Còn 4 chữ “lực”, “lai”, “tương”, “địch” hợp lại thành chữ sắc. Cả câu có nghĩa là: Ta không nhận sắc.
Chúa Trịnh nổi giận quyết đưa đại quân đi đánh phương Nam, họ Nguyễn ở Đàng Trong từ đấy không chịu nhận sắc phong của triều đình nhà Lê nữa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cuộc ra quân bắt đầu từ tháng 2 năm Đinh Mão (1627): “Khi tờ dụ đưa tới, Phúc Nguyên chống mệnh không theo. Bấy giờ mới bàn định việc đi đánh phương Nam. Tháng 2, Thanh Đô Vương (tức Trịnh Tráng-TG )hộ vệ thánh giá thân chinh. Quân đến cửa biển Nhật Lệ, giặc dựa vào thế hiểm chống lại, đại quân mấy lần giao chiến không lợi, liền chỉnh đốn lại quân ngũ trở về”.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn sau này viết rõ hơn về sự kiện đầu tiên của cuộc nội chiến Nam –Bắc thời Trịnh Nguyễn phân tranh như sau: “Tháng 2, mùa xuân. Trịnh Tráng kèm nhà vua đi Nhật Lệ. Trước đây, Tráng sai Công Khoa cấp tư trung Nguyễn Hữu Bản phụng sắc chỉ nhà vua đi Thuận Hóa thu tô thuế từ năm Giáp Tý (1524) trở về trước, lại đón Hi Tông Hiếu văn hoàng đế ta (tức Nguyễn Phúc Nguyên- TG) đến Đông Kinh. Vương thượng (tức Hi Tông) cười bảo Hữu Bản rằng:
- Việc này là phát xuất từ ý riêng họ Trịnh chứ hoàng đế là bậc nhân từ có lẽ nào lại ghét dòng dõi người công thần?
Bèn khoản đãi Hữu Bản một cách trọng hậu rồi bảo trở về. Đến nay, Tráng muốn đem quân vào xâm lược Thuận Hóa, nhưng lại e rằng không lấy lẽ gì để kể tội được. Hắn bèn lập mưu sai Lê Đại Dụng phụng sắc mệnh nhà vua dụ bảo về việc cho con vào chầu, và đòi nộp 30 thớt voi, 30 chiếc thuyền đi biển, để cho đủ thể lệ cống nạp triều đình nhà Minh. Vương thượng lại cười nói:
- Thể lệ cống nạp triều Minh chỉ có vàng tốt và kỳ nam mà thôi, nay họ Trịnh đòi hỏi ngoài lệ ngạch, nên tôi không dám nhận mệnh lệnh. Vả lại, hiện nay tôi đương sửa sang đồ binh khí, tu bổ việc phòng bị ngoài biên cảnh, vậy để cho vài năm nữa tôi sẽ đến triều vua, cũng chưa lấy gì làm muộn.
Thế lực Trịnh - Nguyễn. Nguồn: wki.org

Đại Dụng đem lời nói ấy trở về báo cáo. Tráng bèn hạ lệnh cho bọn Nguyễn Khải, Nguyễn Danh Thế làm tiên phong đem 5000 quân đóng ở Hà Trung. Tráng tự thân đem đại binh kế tiếp xuất phát. Nhân đấy Tráng kèm nhà vua cùng đi, lấy cớ là đi tuần du để xem xét phong tục ở các địa phương; quân thủy, quân bộ cùng nhau đều tiến. Về bên ta, Vương thượng hạ lệnh cho Tôn Thất Vệ làm tiết chế, quan văn là Nguyễn Hữu Dật giữ nhiệm vụ xem xét tình hình chiến đấu, thống lãnh quân bộ đi chống cự; lại hạ lệnh cho Hoàng Tự Trung chỉ huy quân thủy để tiếp ứng. Quân hai bên đóng dinh lũy đối diện với nhau.
Lê Khuê, tướng bên Trịnh, đem kỵ binh vào cướp trận địa, quân ta dùng đại bác bắn lại, quân Trịnh sợ hãi rút lui. Lúc ấy, Nguyễn Khải dàn doanh trại ở phía Bắc sông Nhật Lệ. Nhân đêm, nước thủy triều lên, lính thủy của ta bắn súng để uy hiếp, quân Trịnh sợ hãi rối loạn. Chợt lúc quân của Trịnh Tráng tiếp đến thế quân rất mạnh, quân của ta dùng voi chặn đánh, quân Trịnh tan vỡ, bị chết rất nhiều. Hữu Dật cùng Trương Phúc Gia bàn mưu với nhau: cho gián điệp nói phao lên là Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp nổi loạn. Tráng nghe tin ấy trong bụng nghi ngờ, lại vì cớ bị thua luôn mấy trận, bèn dẫn quân về”.
Vậy là nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng có khả năng đe dọa đến uy quyền của mình, chúa Trịnh mượn danh nghĩa vua Lê đưa ra bản sắc dụ chúa Nguyễn, khi bị cự tuyệt thì lấy đó làm cái cớ để phát binh chinh phạt. Cuộc chinh phạt đó đã chính thức mở đầu cuộc chiến tranh giữa họ Trịnh và họ Nguyễn, sau đó là việc lấy sông Gianh làm ranh giới giữa hai miền Nam Bắc của cục diện Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 200 năm gây bao đau thương cho dân chúng.


Tác giả: Lê Hùng Phong
Ban biên tập chỉnh lý

Nhận xét