3. Lê Văn Duyệt
Hình 3. Chân dung Lê Văn Duyệt
Lê Văn
Duyệt (1763 hoặc 1764- 1832) là một nhà chính trị, quân sự lớn của Việt Nam.
Ông cũng là người được biết tới nhiều nhất trong số Ngũ hổ tướng Gia Định khi
tham gia phò tá chúa Nguyễn Ánh, trong cuộc chiến của ông này với quân Tây Sơn.
Sau khi chiến tranh kết thúc và Nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một vị
quan cấp cao trong triều đình và phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.
Lê Văn Duyệt sinh năm 1763 hoặc 1764 tại vàm Trà Lọt, thuộc
làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Hòa Khánh
thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Cha ông là Lê Văn
Toại có tất cả 4 người con trai, Lê Văn Duyệt là con trưởng. Sử cũ mô tả ông là
người bị yếm hoạn, từ lúc sinh đã không có ngọc hoàn.
Tương truyền vì điều này mà cha ông rất buồn dù cho con trai sinh trưởng và khoẻ mạnh hơn những đứa trẻ khác, một lần ông nhờ một vị thầy bói người Tàu giỏi coi tướng xem cho con trai; vị thầy tướng số sau khi trông mặt Duyệt thì cười nói " thằng bé này tuy bị yếm hoạn nhưng sau này làm nên nghiệp lớn, vợ con thê thiếp đều có đủ cả!". Nghe vậy cha ông mừng lắm mới để ông được ăn học chữ nghĩa đầy đủ, lại cho ông học thêm binh thư theo sở thích.
Tương truyền vì điều này mà cha ông rất buồn dù cho con trai sinh trưởng và khoẻ mạnh hơn những đứa trẻ khác, một lần ông nhờ một vị thầy bói người Tàu giỏi coi tướng xem cho con trai; vị thầy tướng số sau khi trông mặt Duyệt thì cười nói " thằng bé này tuy bị yếm hoạn nhưng sau này làm nên nghiệp lớn, vợ con thê thiếp đều có đủ cả!". Nghe vậy cha ông mừng lắm mới để ông được ăn học chữ nghĩa đầy đủ, lại cho ông học thêm binh thư theo sở thích.
Năm 1781, một lần chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh
đuổi chạy đến vàm Trà Lọt, có ngụ tại nhà ông Lê Văn Toại. Nhân dịp này Lê Văn
Toại mới thỉnh cầu cho con là Lê Văn Duyệt được theo hầu chúa Nguyễn, chúa Nguyễn
bèn thu nhận ông làm thái giám lo việc bảo vệ cung quyến để tạ ơn.
Theo Quốc triều sử toát yếu, thì trong trận đánh tại Đồng Văn
ông bị quân Tây Sơn bắt. Tương truyền tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ có ý muốn thu
dụng ông, nhưng Lê Văn Duyệt không theo, sau đó tìm cách trốn về được với Nguyễn
Ánh, tháng 11 (âm lịch) năm 1784.Qua nhiều lần bôn tẩu cùng chúa Nguyễn và hai
lần cùng chúa sang Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra ông không chỉ là một thái giám tầm
thường, mới nhận xét: " tuy sinh ra là người (thái) giám, (nhưng là) người
mạnh dữ mà đánh giỏi, có công tùng chinh" từ đó luôn giữ Duyệt bên mình,
việc quân cũng đem ra bàn với ông.
Năm 1793, khi theo chúa đi đánh quân Tây Sơn ở Quy Nhơn, Duyệt
lập được công lớn nên được phong Thuộc nội vệ úy thuộc quân Thần Sách.
Năm 1795, Lê Văn Duyệt cùng tướng Nguyễn Đức Xuyên đi cứu
thành Diên Khánh bị quân Tây Sơn vây. Tướng Tây Sơn là Lê Phong giữ đồn Trung Hội
chặt, quân Nguyễn không vượt được. Duyệt liền bàn với tướng Nguyễn Đức Xuyên rằng:
"chia quân 2 đạo, tôi đánh thẳng sau đồn, cho giặc chống giữ, ông dẫn quân
đến trước đồn đào nát cái lũy, lũy sụt, quân ta đánh trông hò reo mà vào, đồn
thế nào cũng bị phá thôi". Đức Xuyên chần chứ không quyết, Duyệt nói
cứng rằng "đã có lệnh rồi, tội vạ gì tôi xin chịu cả". Đức Xuyên mới
nghe theo. Quả nhiên quân Tây Sơn bị thua. Tin thắng trận báo về, Nguyễn Ánh liền
tới nơi xem. Duyệt bước ra xin nhận tội giả làm lệnh chúa nhưng Nguyễn Ánh cười
nói: "Đánh để thắng trận công ấy phải ghi thưởng, có tội gì".
Tháng 11 (âm lịch) năm 1800, ông được cử theo Tiết chế Nguyễn
Văn Thành. Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm
khích. Sách Quốc triều sử toát yếu chép: ...Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận,
cầm hồ rót rượu, rót cho Duyệt một chén và nói rằng: "Uống rượu để thêm sức
mạnh". Ông Duyệt nói: "Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh,
còn như tôi thời trước mắt không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu".
Thành có ý thẹn, từ đó giận Duyệt.
Năm 1801 nổ ra trận quyết chiến giữa Tây Sơn và quân Nguyễn ở
Thị Nại, Lê Văn Duyệt và tướng Võ Duy Nghi cùng dẫn quân đánh thẳng vào thuỷ trại
quân Tây Sơn. Đại Nam liệt truyện chép: “Quân giặc giữ đồn núi chống đánh. Súng
đạn như mưa, Di Nguy bị súng giặc bắn ngã xuống nước chết. Duyệt đánh càng khỏe.
Vua thấy tướng sĩ nhiều người chết, và bị thương, cho tiểu sai dụ tướng sĩ hãy
tạm lui để tránh mũi nhọn của giặc. Duyệt xin liều chết đánh, đối với tiểu sai
nói rằng chỉ có tiến không lui, cứ vào không ra, vây quân kíp tiến bèn vào được
cửa biển, thuận gió phóng hỏa, đốt hết chiến thuyền của giặc. Giặc cả vỡ, chết
rất nhiều, trận này là ngày 16 tháng giêng”. Trận này được xem
là "võ công đệ nhất" của nhà Nguyễn và cũng là trận đánh lớn nhất, lừng
lẫy nhất của ông.
Tháng 4 (âm lịch) cùng năm, ông Duyệt theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân.
Tháng 4 (âm lịch) cùng năm, ông Duyệt theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân.
Tháng sau, đại binh vào cửa Tư Hiền, ông và Lê Chất phá được
đồn quân Tây Sơn ở núi Quy Sơn (tức núi Linh Thái), bắt sống được Phò mã Nguyễn
Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Đến ngày 3 tháng 5 (tức ngày 15 tháng 6 năm
1801), ông cùng chúa Nguyễn Phúc Ánh tiến vào nội thành Phú Xuân sau khi đánh
tan đội thủy quân của nhà Tây Sơn, khiến vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc.
Sau đó, chúa Nguyễn sai Tiết chế Lê Văn Duyệt (có Lê Chất đi
theo) đem quân bộ vào Quảng Nam, Tống Viết Phước (hay Phúc) đem quân thủy, chia
đường vào cứu thành Bình Định. Dọc đường, Lê Văn Duyệt đánh thắng nhiều trận,
nhưng không kịp cứu Quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Vì lương hết, hai
ông đều đã tuẫn tiết vào cuối tháng 5 (âm lịch) năm 1801. Xét công, chúa Nguyễn
phong Lê Văn Duyệt làm "Thần sách quân Chưởng tả dinh Đô thống chế Quận
công". Lại cho Lê Chất làm tướng dưới quyền, để cùng mang quân đi thu phục
các nơi.
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (tức 31 tháng 5 năm 1802),
chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long. Lê Văn
Duyệt được phong làm "Khâm sai Chưởng Tả quân dinh Bình tây tướng quân, tước
Quận công" để cùng với Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà
Tây Sơn. Theo phối hợp còn có binh thuyền do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Đến
tháng 6 (âm lịch), thì quân bộ sang sông Linh Giang (tức sông Gianh ở Quảng
Bình) rồi hiệp với quân thủy đánh lấy Nghệ An, Thanh Hóa, và Thăng Long. Đến
lúc ấy, nhà Tây Sơn kể như bị diệt.
Tháng 3 (âm lịch) năm 1803, Lê Văn Duyệt phá tan cuộc nổi dậy của người dân thiểu số ở Vách Đá (Quảng Nghĩa, nay là Quảng Ngãi), được vua khen thưởng. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế ban khăn áo.
Ngoài ra để tưởng thưởng cho công lao của Lê Văn Duyệt, vua Gia Long còn gả một cung nữ cho ông là bà Đỗ Thị Phẫn. Sau này hai ông bà mất được táng cạnh nhau, lăng của ông bà tại Gia Định được gọi là lăng ông bà Chiểu.
Tháng 3 (âm lịch) năm 1803, Lê Văn Duyệt phá tan cuộc nổi dậy của người dân thiểu số ở Vách Đá (Quảng Nghĩa, nay là Quảng Ngãi), được vua khen thưởng. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế ban khăn áo.
Ngoài ra để tưởng thưởng cho công lao của Lê Văn Duyệt, vua Gia Long còn gả một cung nữ cho ông là bà Đỗ Thị Phẫn. Sau này hai ông bà mất được táng cạnh nhau, lăng của ông bà tại Gia Định được gọi là lăng ông bà Chiểu.
Năm 1808, lại sai Lê Văn Duyệt mang quân đến Đá Vách. Thấy
Phó quản cơ Lê Quốc Huy, vì nhiễu hại quá, nên dân mới nổi dậy. Lê Văn Duyệt
bèn xin lệnh chém chết viên quan này, từ đó Quảng Nghĩa lại được yên.
Tháng 6 (âm lịch) năm 1812, nhà vua cho triệu Tổng trấn Gia Định
Thành Nguyễn Văn Nhơn về, cử Lê Văn Duyệt vào thay, và cho Trương Tấn Bửu làm
Phó tổng trấn, Ngô Nhân Tịnh làm Hiệp trấn.
Tháng 2 (âm lịch) năm 1813, nhận lệnh vua, Lê Văn Duyệt và Hiệp
trấn Ngô Nhân Tĩnh đem 13.000 quân thủy đưa Nặc Chân về nước Chân Lạp
(Campuchia ngày nay). Tại đây, ông thấy quân Xiêm cứ dòm ngó Chân Lạp, bèn xin
vua Gia Long cho đắp thành Nam Vang cho vua nước này ở (trước đó ở thành La
Bích), đắp thành Lô Yêm để trữ lương, đồng thời lưu binh ở lại bảo hộ (Nguyễn
Văn Thoại được cử ở lại). Tất cả đều được vua nghe theo.
Năm 1815, Lê Văn Duyệt được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về
ngôi Thái tử. Khi ấy Lê Văn Duyệt ủng hộ con của hoàng tử Cảnh kế ngôi thái tử,
phản đối truyền ngôi cho Minh Mạng. Nên về sau vua Minh Mạng rất căm giận ông,
dù vậy khi ông còn sống vua Minh Mạng vẫn sợ uy ông mà không dám động tới.
Trên triều Lê Văn Duyệt không kiêng nể ai thường có tấu sớ kể
tội các quan, nên triều thần nhiều người cũng căm giận ông mà sau này đồng loã
với vua Minh Mạng tìm cách trả thù.
Tháng Giêng (âm lịch) năm 1819, Lê Văn Duyệt nhận mệnh đi
kinh lược các vùng: Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình). Vì
các nơi ấy thường mất mùa, sinh ra nhiều trộm cướp, quan sở tại không kiềm chế
được. Đến nơi, ông dâng sớ về triều "nói việc khổ của dân, xin tha thuế
cho dân, lại phải lựa quan trấn để an tập dân", được vua y cho. Ở Thanh
Hóa, ông nhận Lê Văn Khôi làm con nuôi. Ông Khôi nguyên là người ở Cao Bằng, vì
khởi binh chống Nguyễn, bị quan quân đuổi đánh, phải chạy vào Thanh Hóa, gặp
ông Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy. Khôi nể Duyệt là người rộng lượng lại xét xử
nghiêm minh bèn ra xin đầu thú, Duyệt thấy Khôi là kẻ hữu dũng có thể kế thừa ý
chí của mình bèn thu dụng và nhận làm con nuôi.
Tháng 9 (âm lịch), triệu Lê Văn Duyệt về triều. Sang tháng 12
(âm lịch), vua Gia Long cho đòi ông và Phạm Đăng Hưng vào cung lãnh di chiếu,
tôn Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi (tức vua Minh Mạng). Đồng thời nhà vua cho ông Duyệt
cai quản quân 5 dinh Thần sách.
Tháng 10 (âm lịch) năm 1822, vua Minh Mạng sai Lê Văn Duyệt điều động quân và dân (được hơn 39.000 người) để tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế là dự án còn dang dở từ thời Gia Long (đến tháng 5 âm lịch năm 1824 thì xong).
Tháng 10 (âm lịch) năm 1822, vua Minh Mạng sai Lê Văn Duyệt điều động quân và dân (được hơn 39.000 người) để tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế là dự án còn dang dở từ thời Gia Long (đến tháng 5 âm lịch năm 1824 thì xong).
Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (tức 28 tháng 8 năm 1832), Chưởng
tả quân lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất tại chức, thọ 69 tuổi. Sau đó,
triều đình truy tặng ông chức "Tá vận công thần đặc tấn Tráng võ tướng
quân – Tả quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo quận công", thụy là
"Oai Nghị".
Sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng cho bãi chức
Tổng trấn Gia Định Thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh, là: Gia Định, Biên
Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Lại đặt các chức Tổng đốc, Tuần
phủ, bố chính, Án Sát, Lãnh binh như các tỉnh ở ngoài Bắc. Đến khi Bạch Xuân
Nguyên đến làm Bố chính ở Phiên An (tức tỉnh Gia Định), nói rằng phụng mật chỉ truy
xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cứ, đồng thời trị tội các
tôi tớ của ông Duyệt. Vì bị bức, con nuôi ông Duyệt là Lê Văn Khôi bèn khởi
binh chống lại.
Vua Minh Mạng nhân đó cho quan quân đánh dẹp khởi nghĩa Lê
Văn Khôi, dẹp xong rồi thì cho đình thần hoạch tội ông. Minh Mạng phán rằng:
" Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng,
dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu
và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng
công. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất
và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục
pháp xứ" (Chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp)". Án này vạ
lây sang những người thân tín với ông trong đó có gia đình tướng Lê Chất. Riêng
vợ ông bà Đỗ Thị Phẫn thì được tha vì ông là người yếm hoạn, chiểu theo luật thời
ấy bà không bị bắt tội.
Năm Tân Sửu (1841) vua Thiệu Trị lên ngôi, ban lệnh tha tội
các thân thuộc của Lê Chất và Lê Văn Duyệt.
Tháng 2 (âm lịch) năm đầu Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ
Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn
Duyệt và Lê Chất. Lời tâu làm vua cảm động, bèn cho con cháu ông Thành làm
Chánh đội. Tuy nhiên, mãi đến năm tháng 4 (âm lịch) năm 1868, nhà vua mới chính
thức ban lệnh truy phục chức hàm cho Nguyễn Văn Thành (là Chưởng trung quân Đại
tướng quân Quận công) và Lê Văn Duyệt (là Chưởng tả quân Đại tướng quân), đồng
thời cho thờ trong miếu Trung hưng công thần ở Huế.
4. Nguyễn Huỳnh Đức
Hình 4. Chân dung Nguyễn Huỳnh Đức
Nguyễn Huỳnh Đức (1748 - 1819) là một trong Gia
Đinh ngũ hổ tướng, khai quốc công thần triều Nguyễn và từng là tổng trấn Bắc
Thành và Gia Định.
Ông tên thật à Huỳnh Tường Đức, cha và ông nội
của ông đều là quan chức phụng sự chúa Nguyễn. Tương truyền ông là người có
dung mạo khôi ngô, lại có sức khoẻ, dũng cảm hơn người.
Năm 1781, sau khi nhà Tây Sơn khởi nghĩa, chúa
Nguyễn Ánh phải lên đường bôn tẩu, ông Nguyễn Huỳnh Đức gia nhập quân Đông Sơn
lãnh đạo bởi Đỗ Thành Nhơn chống chọi với quân Tây Sơn. Về sau Đỗ Thành Nhơn bị
Nguyễn Ánh giết chết, nhưng Nguyễn Huỳnh Đức vẫn được lưu dùng.
Năm 1782, chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh
bại ở Định Tường, quân sĩ chạy tan tác cả, chúa chẳng may bị sa lầy. Ai cũng lo
chạy thoát thân, chỉ có Huỳnh Đức là quay trở lại cứu chúa. Lúc ấy trời sập tối
, quân Tây Sơn sợ có phục binh nên không truy đuổi nữa. Cả đêm, vì kiệt sức mà
Nguyễn Ánh nằm gối đầu lên đùi ông mà ngủ say, Huỳnh Đức thức trắng đêm, ngồi
bất động như tượng đá canh cho chúa ngủ. Cảm động vì sự trung thành và tận tuỵ
của ông mà chúa Nguyễn Ánh ban quốc tính họ Nguyễn cho ông, đối đãi ông như là
thành viên của hoàng tộc.
Năm 1783, ông dẫn quân đánh nhau với quân Tây
Sơn ở Đông Tuyên, thua trận bị bắt. Chủ tướng quân Tây Sơn lúc đó là Nguyễn Huệ
thấy ông là người hữu dũng bèn thu dụng ông. Nguyễn Huỳnh Đức chịu theo, nhưng
có lời giao kết là ông chỉ đánh quân Trịnh không đánh quân chúa Nguyễn.
Năm 1786, ông theo Nguyễn Huệ ra bắc đánh quân
Trịnh, được giao làm phó tướng của Nguyễn Văn Duệ. Duệ là tâm phúc của vua Tây
Sơn: Nguyễn Nhạc, có ý không phục Nguyễn Huệ. Ông bèn dụ Duệ cùng mình theo
đường tắt lẻn trở về Quy Nhơn với Nguyễn Nhạc, dọc đường nhân khi quân Duệ sơ
hở ông trốn sang Vạn Tượng rồi chạy tiếp sang Xiêm La tìm Nguyễn Ánh, nhưng lúc
này Nguyễn Ánh đã về Gia Định rồi, vua Xiêm muốn giữ ông lại, nhưng ông kiên
quyết về với chúa Nguyễn.
Năm 1799, ông được thăng chức Chưởng quản Hữu
quân dinh, ra đánh lấy được Phan Rí, rồi Thị Nại (Bình Định). Năm sau, ông dẫn
quân đánh hạ được thành Quy Nhơn, rồi được cử vào Nam cai quản xứ Định Tường.
Sau khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm thành Phú Xuân, giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy
hiệu là Gia Long, Nguyễn Huỳnh Đức được phong Quận công.
Ngày 9 tháng 9 năm Kỷ Mão (tức 27 tháng 10 năm
1819), ông mất khi đang tại chức, thọ 71 tuổi, an táng tại nơi quê nhà và được
thờ tại miếu Trung hưng công thần tại kinh đô Huế.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), ông được truy tặng
là Kiến Xương Quận công. Ông có 4 người con trai đều là võ quan, trong số đó có
2 người là rể của vua Gia Long.
5. Trương Tấn Bửu
Hình 5. Chân dung Trương Tấn Bửu
Trương Tấn
Bửu (1752 - 1827), có tên khác là Trương Tấn Long; là một danh tướng của chúa
Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. Nhờ lập được nhiều công lao, ông được
phong tước Long Vân Hầu và được người đương thời liệt vào Ngũ hổ tướng Gia Định.
Ông là
người làng Hưng Lễ, tổng Bảo Thạnh (thuộc xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến
Tre ngày nay). Ông xuất thân từ gia đình phú nông, có bảy anh em. Là người hào hiệp, giỏi võ
nghệ có sức đánh hổ, dù chỉ học ít chữ nghĩa nhưng ông cũng là người có tư chất
thông minh, trong quá trình làm quan, được Gia Long đưa thầy đến dạy chữ, lại
miệt mài nghiên cứu binh thư, sách vở thánh hiền, về sau ông còn biết sáng tác
cả thơ phú...
Vào một đêm tháng 10 năm Đinh Dậu (1787), đoàn chiến thuyền của
Chúa Nguyễn Ánh bị quân của Tây Sơn truy đuổi từ Mỹ Lồng rẽ vào sông Hương Điểm.
Bị lạc đường Nguyễn Ánh vài người thân cận bỏ thuyền lên bờ tới xóm Cây Da, xã
Hưng Lễ. Họ gõ cửa nhà ông Trương Tấn Khương (thân phụ của Trương Tấn Bửu) để
xin tá túc. Vốn thương người, cha con ông Trương Tấn Khương liền mời khách vào
đãi cơm và cho ngủ nhờ. Nguyễn Ánh lưu lại đây một thời gian, cùng làm ruộng và
sống rất thân tình với gia đình họ Trương. Trương Tấn Bửu là người có mắt tinh
đời, nên hoài nghi, gạn hỏi. Nguyễn Ánh thấy Bửu là người tài giỏi lại trung thực
có thể tin cậy được nên thú nhận thân phận của ông. Trương Tấn Bửu bèn xin theo
phò chúa Nguyễn.
Tháng 6 năm Canh Tuất (1790) Long Vân Hầu được làm Hậu quân,
Hậu chánh trưởng chi, rồi lại đổi qua Tiền quân. Ông đánh nhau với nhà Tây Sơn ở
Qui Nhơn, lập được nhiều chiến công, tháng 2 năm Đinh Tỵ (1797), ông được phong
làm Tiền quân Phó tướng, một lượt với Phan Tấn Huỳnh.
Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (Gia Long),
phong ông làm Chưởng dinh, quản lĩnh đạo quân Bắc Thành.
Đầu năm Bính Dần (1806), bọn cướp biển “Tề ngụy hải phỉ” (giặc
Tàu Ô) vốn là quân "phản Thanh phục Minh" trước được nhà Tây Sơn dung
dưỡng, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ thì họp nhau lại mưu chống nhà Nguyễn khôi phục
lại nhà Tây Sơn mới đem ba mươi thuyền tới đảo Huê Phong để cướp phá đồn Phượng
Hoàng. Long Vân Hầu thân chinh đánh đuổi bọn cướp. Dẹp giặc xong, ông liền được
dời về Đế đô nhậm chức Trung quân Phó tướng. Rồi ngay sau đó lại ra quân đánh
giặc cướp suốt. Ông đánh nhau với giặc Tàu Ô ba mươi sáu trận. Ông bình được bọn
quần khấu cho dân an cư lạc nghiệp. Dân các trấn kể trên rất kính phục, luôn tưởng
nhớ đến công đức của ông. Vua ban thưởng cho cùng ba quân vạn quan tiền và ban
ân điển cho tướng sĩ trận vong.
Tháng 11 năm Canh Ngũ (1810), Long Vân Hầu được triệu về giữ
chức Tổng trấn thành Gia Định thay Nguyễn Văn Nhân.
Năm 1816, ông đốc suất đắp thành Châu Đốc rồi được điều về Huế
làm Trung quân phó tướng.
Năm Nhâm Thân (1821), ông lại được cử làm Phó Tổng trấn Gia Định
Thành lần thứ hai.
Năm Nhâm Ngọ (1822), ông được thăng Chánh nhất phẩm, thân phụ
ông cũng được vua Minh Mạng ban sắc truy phong là Nghiêm oai tướng quân, Trung
quân Thống chế và mẹ ông cũng được truy phong vào hàng mệnh phụ phu nhân.
Năm Quý Mùi (1823), theo lệnh của Lê Văn Duyệt, ông chỉ huy
khoảng 35.000 quân và dân lo nạo vét kênh Vĩnh Tế cùng với Thoại Ngọc Hầu, rồi
chẳng bao lâu sau ông bệnh, xin về hưu vào ngày 17 tháng 11 năm Ất Dậu (1825).
Tuy hưu trí, nhưng ông được vua Minh Mạng cho hưởng lương bổng
đầy đủ. Ngày 2 tháng 8 năm 1827 (10 tháng 6 âm lịch năm Đinh Hợi) ông mất, thọ
75 tuổi.
Chánh tướng Lê Văn Duyệt trông coi việc chôn cất cho Phó tướng
Trương Tấn Bửu tại làng Phú Nhuận (quận Phú Nhuận, TPHCM ngày nay).
Hết.
Ban Biên tập sưu tầm và chỉnh lý
Nguồn ảnh: warm21.
Nhận xét
Đăng nhận xét