NHỮNG SAI LẦM VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ XÂY DỰNG, TIẾN HÀNH KẾ HOẠCH CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 - Phần 1
1.1. Tình hình chiến trường đối với
phong trào giải phóng miền Nam của trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi nghiên cứu về cuộc chiến tranh
của Mỹ tại Việt Nam, có nhiều luồng quan điểm từ phía các nhà sử học Việt Nam
theo quan điểm, lập trường Marxist và các nhà sử học phương Tây theo trường
phái tự do. Nhưng tựu chung, dù ở lập trường hay quan điểm nào thì tất cả đều
thống nhất về sự phá sản của giới quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa trong chiến
lược chiến tranh cục bộ, mà bước ngoặt mang tính quyết định là “cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968”. Xét về bối cảnh Việt Nam những năm
60-70 của thế kỉ 20 Mĩ đang phải đối mặt với những thất bại liên tiếp sau hai
cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 với mục tiêu là đánh bại
cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân miền Nam, đồng thời dùng các lực lượng
không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Với các kết quả không mong muốn, lầu
Năm góc đã dần đi đến kết luận phá sản của chiến tranh đặc biệt và chuyển sang
chiến tranh cục bộ. Sự thật là, chiến lược trên chính là bước thụt lùi trong
đường hướng tác chiến của Mỹ, đánh dấu việc phản công chiến lược bị thay thế
bởi bị động phòng ngự. Nhận thấy đây là tình hình có lợi cho cách mạng giải
phóng miền nam Việt Nam, tháng 12-1967 Ban chấp hành trung ương cộng sản Việt
Nam quyết định “ Đưa cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam lên một bước phát
triển cao bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
quyết định.”. “quân Đồng Minh. Bước sang mùa khô 1966-1967 Mỹ tung ra một lực
lượng lớn gồm 20 sư đoàn, 10 lữ đoàn chủ lực 4000 máy bay, 2500 xe
tăng, 2500 khẩu pháo, 500 tàu chiến với ưu thế về lực
lượng vũ khí trang bị. Trong khi đó lực lượng của quân giải phóng miền Nam và
quân đội Bắc Việt chỉ vỏn vẹn 280.000 quân với 7 sư đoàn, 33 trung đoàn,147
tiểu đoàn trong cuộc phản công lần này có 426 cuộc hành quân đánh vào quân chủ
lực và đầu não kháng chiến trong đó có 3 cuộc hành quân quy mô lớn là Atleboro
đánh vào khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), Cerdar Falls đánh và Bến Súc (Củ Chi),
Junction City đánh vào bắc Tây Ninh cả 3 cuộc hành quân trên đều không thu được
kết quả nào đáng kể và bị loại khỏi vòng chiến đấu 151.000 quân trong đó có 68.000
quân Mỹ dù huy động số lượng quân và khí giới rất lớn 1231 máy bay bị phá hủy
cùng với 300 khẩu pháo và 1627 xe tăng
Qua 2 cuộc phản công chiến lược
1965-1966, 1966-1967 có thể thấy được sự thất bại của Mỹ không những không tiêu
diệt được quân giải phóng và cơ quan đầu não chỉ đạo cách mạng ở miền Nam mà
còn bị thất bại ngày một nặng nề, sa sút về tinh thần mâu thuẫn giữa tìm diệt
và bình định ngày càng lớn cùng với đó là cuộc đánh phá ác liệt ở miền bắc mặc
dù chịu nhiều tổn thất nhưng quân và dân miền Bắc vẫn đứng vững và là hậu
phương có vai trò quyết định đối với thắng lợi của cách mạng miền Nam và cũng
khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng miền Nam. Nhưng khi thất bại ở 2
cuộc phản công với lực lượng lớn như vậy Mỹ lại tiếp tục tăng số lượng quân lên
525.000 kết hợp với quân đội Sài Gòn với ý định mở thêm một đợt phản công chiến
lược trong mùa khô 1967-1968 cũng với mục tiêu đánh vào chủ lực của quân giải
phóng và cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam.
Có thể thấy những nỗ lực của Mỹ trong
chiến lược “chiến tranh cục bộ” khi đưa quân đổ bộ trực tiếp vào miền Nam và
không ngừng tăng quân và thiết bị với ý đồ dập tắt mọi hi vọng làm lung lay ý
chí của lực lượng kháng chiến ở miền nam nhưng càng đánh càng thất bại và sa
lầy ở nơi mà Mỹ cho rằng sẽ chiến thắng dễ dàng với tiềm lực quân sự của mình.
Có được kết quả thắng lợi đó là cả một quá trình chiến đấu liên tục chạm trán
với lực lượng quân Mỹ quân đồng minh và quân đội Sài Gòn trong quá trình chiến
đấu đó quân và dân miền Nam luôn chủ động trên chiến trường tấn công liên tục
làm tiêu hao sinh lực đối phương đánh phủ đầu áp dụng phương châm “bám thắt
lưng địch mà đánh” áp sát chủ động đánh làm giảm sức mạnh hỏa lực từ các vũ khí
trang bị của Mỹ qua đó quân giải phóng miền Nam ngày càng trưởng thành tăng về
cả số lượng và chất lượng.
“chỉ tính riêng trên chiến trường miền
Nam bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương tăng từ 115.000 (năm 1964) lên 176.000
(năm 1966) và 277.000 (năm 1967)”[12;300] so sánh về lực lượng và vũ khí vẫn có
sự chênh lệch nhưng dựa vào lợi thế của mình là chiến tranh du kích và chiến
tranh nhân dân đánh mọi lúc mọi nơi trên chiến trường là cơ sở để quân và dân
miền Nam đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược (1965-1966, 1966-1967) từ đó đánh
bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ của Mỹ áp dụng tại miền Nam Việt
Nam.
Trên cơ sở giành thắng lợi ở 2 cuộc phản
công chiến lược Trung ương Đảng nhận định “lực lượng so sánh
giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến trở nên gay go ác liệt
nhưng nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động
trên chiến trường có điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của
địch”[3;301]
“ Trên cơ sở nắm vững và vận dụng phương
châm đánh lâu dài, trong điều kiện cụ thể hiện nay, chúng ta cần cố gắng cao độ
tập trung lực lượng của cả hai miền tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong
thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.” Nhận định trên
được Trung ương Đảng đưa ra trên cơ sở thực tiễn trên chiến trường có thể thấy
rằng thực tế quân đội Mỹ trải qua tất cả các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam
từ chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt và đến chiến tranh cục bộ là
những nỗ lực cao nhất. Sử dụng tất cả các phương tiện chiến tranh nhưng Mĩ và
quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn không thay đổi được cục diện trên chiến trường,
ngược lại càng làm cho tình hình xấu thêm với những diễn biến ngày càng bất lợi
và đe dọa tới chính lực lượng quân sự của bản thân. Trên cơ sở khả quan của các
chiến dịch nhỏ lẻ, khả năng có thể đánh thắng quân Mỹ, với lực lượng chính trị
và đấu tranh chính trị không ngừng phát triển mạnh mẽ, với chính nghĩa rõ ràng,
được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vào
tháng 12-1967 đưa ra quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968
với mục tiêu ban đầu là làm sụp đổ chính quyền miền Nam Việt Nam, nếu có điều
kiện thì giải phóng miền Nam trong cùng năm. Với những chuyển biến tích cực,
lòng tin của các cấp chỉ huy chiến dịch vào kế hoạch này đã đạt đến mức cao
nhất, thế nhưng mức độ thành công lại không tương xứng với những kỳ vọng và dự
đoán khả quan trên lý thuyết.
1.2. Tình hình nội bộ nước Mỹ và quân
đội Mỹ xoay quanh cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968
Có thể nói trong suốt các cuộc chiến
tranh dọc theo chiều dài lịch sử nước Mỹ, chưa có cuộc chiến nào làm cho quân
đội Mỹ phải sa lầy thảm hại và ảnh hưởng tới ý nhân dân Mỹ như chiến tranh Việt
Nam. Sự thất bại và phá sản liên tục của 2 chiến lược quân sự đã dẫn tới việc
chia rẽ và mất niềm tin trong nội bộ giới quân sự, chính trị và làn sóng phản
chiến trong cộng đồng người dân Mỹ “tương lai không thể lường được
của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí nhân dân
Mỹ”[14;126] . Mỹ ngày càng sa lầy vào chiến tranh Việt Nam, chi phí
ngày càng tăng, 1965-1966 là 4,7 tỷ USD, tới năm 1967 đã lên tới 30 tỷ USD, gấp
1.5 lần so với chiến tranh Triều Tiên. Chính vì do chi phí chiến tranh quá cao
đã làm thâm hụt, suy thoái ngân sách, giá cả bắt đầu tăng vọt, lạm phát không
kiểm soát được. Ở chiến trường Việt Nam, quân đội Mỹ bị lừa dối bởi chính các
báo cáo không đúng sự thật của quân lực Việt Nam Cộng Hòa về tình hình chiến sự
và các nguy cơ đối với chiến lược mới nhất của họ - chiến tranh cục bộ. Việc
này dẫn đến sự mâu thuẫn giữa chính phủ và người dân Mỹ, và trong nội bộ chính
phủ với nhau, giới quân sự lừa dối tổng thống, tổng thống lừa dối quốc
hội,….Vào những năm 1967-1968 khi chiến sự đã ở vào mức cao nhất, cả nước Mỹ
như một quả bom khổng lồ trước các làn sóng phản chiến gia tăng, nhiều quan
chức điều hi vọng một phép màu về sự chấm dứt của cuộc chiến không hồi kết
này.Và chiến dịch Mậu thân 1968 ở Việt Nam đã kích nổ toàn bộ các mâu thuẫn
trên, đó là dấu chấm hết cho hy vọng tiếp tục quân sự ở miền Nam Việt Nam.Một
sự thất bại cho thấy ngày người Mỹ rút khỏi cuộc chiến này chỉ là vấn đề thời
gian. Theo nhận định về khả năng chiến thắng của Mỹ sau sự kiện Tết 1968, Clark
Clifford – tân bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Mỹ cho rằng “ sẽ không thực tế nếu hy
vọng thu được kết quả tích cực bằng giải pháp quân sự và đã đến lúc Mỹ phải
chấm dứt dính líu vào cuộc chiến tranh”. Sau những ngày căng thẳng, vào
cuối tháng 2, đầu 3-1968, Clifford tin chắc rằng đường lối quân sự mà Mỹ theo
đuổi ở Việt Nam thông qua chiến lược “ chiến tranh cục bộ” sẽ không có kết quả,
ông thừa nhận “ tôi không thể tổ chức một kế hoạch giành chiến thắng trong cuộc
chiến tranh, và sẽ không có một kế hoạch nào cho việc có thể giành được thắng
lợi trong cuộc chiến này”[14;40] trong lòng nước Mỹ và ngay trong chính giới
lãnh đạo Mỹ khi bị chia thành hai phe đối lập nhau giữa một bên ủng hộ tiếp tục
cuộc chiến và bên còn lại trong khi phe phản chiến kêu gọi Tổng thống Johnson
tìm kiếm một giải pháp hòa bình xuống thang chiến tranh ngược lại phe ủng hộ
cuộc chiến trong đó, hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ và tướng
Westmoreland tiếp tục yêu cầu Tổng thống Johnson gửi quân tăng viện cho miền
Nam điều này cho thấy giới quân sự Mỹ vẫn đặt niềm tin vào chiến thắng cuối
cùng.“Nhưng đề xuất này đã không được sự đồng thuận của Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ trước mắt ông vẫn ủng hộ việc gửi 10.500 quân sang miền Nam Việt
Nam để đối phó với các cuộc tấn công của quân Bắc Việt mặt khác khuyên Tổng
thống Johnson không nên động viên quân trù bị xem đó như một cử chỉ phản đối
thái độ hiếu chiến của Hội đồng tham mưu liên quân và tướng
Westmoland”[12;290,291] sự mâu thuẫn trong giới lãnh đạo Mỹ tăng lên cực điểm
khi tướng Earle G. Wheeler tiếp tục đề xuất lên tổng thống Johnson tăng thêm
206.000 quân cho miền Nam Việt Nam và thông tin này đã được báo New York times
đăng vào ngày 10/3/1968 và đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ đến từ phe phản
chiến cũng như dư luận báo chí và nhân dân Mỹ cuộc chiến tranh Việt Nam đã thật
sự làm cho nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ một cách nghiêm trọng.Qua những kế hoạch,
chính sách tăng quân của Mỹ ở chiến trường miền Nam Việt Nam không chỉ làm cho
giới lãnh đạo chiến tranh và tình hình chính trường Mỹ bị chia rẽ mà còn làm
cho người dân Mỹ phản đối chiến tranh quyết liệt mà biểu hiện rõ nhất là các
cuộc biểu tình chống chiến tranh đòi rút quân về nước.
Sở dĩ có những cuộc biểu tình đó nổ ra
vì một lý do đó là những tuyên truyền của chính giới lãnh đạo với những lời
tuyên truyền vỗ về dân chúng rằng “chúng ta đang thắng”sai với thực tế trên
chiến trường đối với Tổng thống Johnson và những người thân cận của
mình tình hình chiến cuộc và giới công luận là một điều nghịch lí.”Tháng này
qua tháng khác những thông báo chính thức từ Sài Gòn nói đến việc tiến triển
chậm nhưng vững chắc- con số đếm xác Việt Cộng và con số thương vong của Bắc
Việt ngày càng tăng , những dòng người Việt di tản vào các thành phố đảm bảo an
ninh hơn, những tuyến đường mới mở, những căn cứ được xây dựng, một chính phủ
ít nhất cũng có tính chất hợp pháp được bầu bán dù nó có được dân chúng ủng hộ
hay không-và tháng này sang tháng khác những người Mỹ lại tuyệt vọng đối với
cuộc chiến tranh sự ủng hộ đang cạn dần”[2;79] rõ ràng có thể thấy rằng dư luận
Mỹ đang là một mặt trận mà Tổng thống Jonhson và những người thân cận rất cẩn
trọng đối phó, trong đoạn trích dẫn trên có một điểm đáng lưu ý có thể thấy
thực chất thời gian đầu của cuộc chiến người dân Mỹ vẫn ủng hộ cuộc chiến và
xem đây như là một cuộc chiến tranh chính nghĩa để ngăn cản làn sóng Cộng sản ở
Đông Dương và Đông Nam á xuất phát từ học thuyết Domino của Tổng thống
Eisenhower một cuộc phiêu lưu chống Cộng nhưng với điều kiện là phải giành được
thắng lợi trong thời gian ngắn với vũ khí, trang bị hiện đại nhưng mọi thứ diễn
ra với tình hình ngược lại và ngày càng xấu đi khi số quân phải gửi sang nam
Việt Nam ngày một tăng và Mỹ ngày càng sa lầy và gánh chịu thất bại nặng nề
điều đó làm cho lòng tin của họ ngày một giảm cộng với đường lối tuyên truyền
nhằm mục đích xoa dịu dư luận và những báo cáo sai sự thật của chính quyền Mỹ
đã càng làm tình hình nội bộ nước Mỹ xấu đi. Làn sóng phản đối chiến tranh, đòi
rút quân Mỹ về nước bùng lên mạnh mẽ qua các cuộc biểu tình điển hình là “tháng
8/1968 cuôc chiến Chicago nổ ra khi lực lượng cảnh sát đeo mặt nạ đàn áp cuộc biểu
tình phản đối Đại hội của đảng Dân chủ Mỹ. Đoàn biểu tình đã chống trả quyết
liệt bằng trứng thối và chai lọ kết quả là 800 người bị thương và gần 700 người
bị bắt trong đó có cả nhà báo và giới truyền thông ngay cả trong binh lính Mỹ
tư tưởng thà chịu bị phạt tù chứ không tham chiến tại Việt Nam ngày càng lan
rộng càng có nhiều binh lính Mỹ đào ngũ” [12;85]
Sự bất bình trong dân chúng Mỹ đã thực
sự tạo nên cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ như Kissinger đã thừa nhận:” các
thế hệ tương lai có thể khó hình dung cơn biến động trong nước mà chiến tranh
Việt Nam đã gây ra chính cơ cấu của chính phủ bị tan rã. Ngành hành pháp bị
choáng váng” [12;85]
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân nổ ra đúng thời điểm chính trị nóng bỏng ở Mỹ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ
đang đến gần đặc biệt qua những con số thống kê trải qua 3 năm trực tiếp tham
chiến ở Việt Nam đã huy động đến đỉnh cao lực lượng về quân sự cũng như tài
chính “30% lực lượng không quân chiến thuật 1/3 lực lượng hải quân. Chi phí
chiến tranh tính tới năm 1968 lên đến 70 tỉ đô la(gấp 3 lần chiến tranh Triều
Tiên) nhưng vẫn chưa cải thiện được tình hình tác động lên nền kinh tế xã hội
ngày càng nặng nề, “Với người dân Mỹ chiến tranh đã đi vào cuộc sống của họ và
trở thành sức ép đối với chính quyền Washington”[12;84]. Đây đồng thời là
thời điểm chạy đua tranh cử vào Nhà Trắng của các ứng cử viên “ Tết Mậu Thân
thực sự đã tạo nên một cuộc chiến gay gắt. Nó không chỉ thể hiện sự chia rẽ
trong giới lãnh đạo giữa hai lực lược đối lập là lực lượng yêu cầu chấm dứt
chiến tranh và lực lượng ủng hộ việc tiếp tục chiến tranh nhằm tìm kiếm
chiến thắng cuối cùng” từ tháng 1 thuộc lực lượng ủng hộ chiến tranh chuyển
sang lực lượng yêu cầu chấm dứt chiến tranh là 20% đế giữa tháng
3/1968 lực lượng ủng hộ tiếp tục chiến tranh đã sụt giảm về dưới mức thấp hơn
bất kì thời điểm nào trước đây.” Cuộc điều tra cho thấy có đến 52% dân
chúng Mỹ không tán thành đường lối chỉ đạo chiến tranh của Tổng thống
Jonhson”[12;85] sự khủng hoảng chiến lược của Mỹ tại Việt Nam cũng như toàn cầu
mà cả sự phẫn nộ của dân chúng Mỹ đối với chính phủ
Có thể thấy rằng những chiến lược chính
sách của Mỹ về chiến tranh Việt Nam là nguyên nhân dẫn đến tình hình xấu đi của
nội bộ nước Mỹ những chỉ đạo chiến tranh sai lầm đó cộng thêm việc những báo
cáo tuyên bố sai lệch của chính phủ cũng như những bình luận thiên lệch của
giới truyền thông Mỹ làm cho sự bất bình của dân chúng càng được đẩy lên cao
như quan điểm đã nêu thực chất người dân Mỹ ban đầu có sự ủng hộ đối với chiến
tranh Việt Nam với điều kiện là đánh nhanh thắng nhanh giải quyết chiến tranh
trong thời gian ngắn một dẫn chứng rõ ràng “ Nếu vào tháng 11/1967 người
dân Mỹ chỉ hoài nghi về chiến tranh ở Việt Nam và vẫn còn hi vọng về khả năng
chiến thắng thì đến Mậu Thân, thay vào đó là sự giận dữ phẫn nộ và cuối cùng là
sự thất vọng”[12;84]. Nước Mỹ lúc này là một bức tranh ảm đạm hơn cả thời kì
đại suy thoái hay sự thất bại ở trận Trân Châu Cảng một hạ nghị sĩ đã phải viết
rằng” Tôi không nhớ lại thời nào mà người dân Mỹ xem ra lại u sầu, chán
nản và hỗn loạn như thế và có những sự chia rẽ thiếu tin tưởng và sự thù ghét
đến thế”[2;120]
Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu
Thân 1968 quân giải phóng và quân đội Bắc Việt đã chứng minh cho quân đội Mỹ
những người chỉ đạo chiến tranh và người dân Mỹ với chiến lược và vũ khí hiện
đại cũng không thể đánh bại được ý chí chống xâm lược của nhân dân Việt Nam và
chứng minh sự thật người dân Mỹ đã bị lừa dối trong một thời gian dài những bất
ổn chính trị, xã hội của nước Mỹ bắt nguồn từ những người lãnh đạo mà đứng đầu
là Tổng thống Jonhson trong nội bộ giới chỉ đạo chiến tranh trở nên căng thẳng
với hai sự lựa chọn:”Mỹ tiếp tục tăng quân cho chiến trường Nam Việt Nam theo
yêu cầu của tướng Westmoreland (khoảng 200.000 quân) tiếp tục ném bom xuống Bắc
Việt Nam không ngoại trừ sử dụng bom hạt nhân”[12;87] Sự lựa chọn này trong
thời chiến tranh đã gặp sự phản đối quyết liệt của nhân dân Mỹ và công luận
quốc tế đến lúc này bên cạnh sự phản đối của các tầng lớp nhân dân Mỹ Tổng
thống Jonhson và những người ủng hộ chiến tranh Việt Nam phải đối mặt với một
vấn đề lớn nữa là sự phản đối của giới truyền thông trong nước, như đã nói
truyền thông là một mặt trận mà giới chỉ đạo chiến tranh Mỹ rất thận trọng sử
dụng để tuyên truyền cho người dân thông qua các báo cáo sai lệch được gửi về
từ Sài Gòn thì thời điểm này nó không còn hiệu quả sự thay đổi lập trường như
vậy được thể hiện họ quay 180 độ với những bình luận thẳng rằng chúng ta đang
thua và yêu cầu chính phủ phải ngừng ném bom Bắc Việt giảm tối đa sự
can thiệp vào chiến trường Nam Việt Nam và rút hết quân về nước. Sự thay đổi
lập trường từ ủng hộ cuộc chiến sang phản đối như vậy chính là nhờ những hình
ảnh, thước phim mà chính các phóng viên chiến trường tác nghiệp ngay tại Nam
Việt Nam gửi về và được phát trên truyền hình qua các bản tin thời sự mỗi tối
trong thời điểm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân nổ ra trong những tuần
đầu tiên”theo hãng tin NBC thì có khoảng 10 triệu gia đình theo dõi mỗi tối
trong những tuần đầu tiên của cuộc tiến công”[12;86]
Có thể thấy rõ một điều rằng sự quan tâm
của người dân đối với cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là rất
lớn, những hình ảnh thực tế mà các phóng viên chiến trường gửi về đã làm cho
người dân Mỹ thấy được thực tế ngược lại hoàn toàn với những gì mà
họ được nghe từ giới chỉ đạo chiến tranh của lầu Năm góc, cho người dân Mỹ nhận
thức được một điều là chiến thắng của quân đội Mỹ ở nam Việt Nam ngày càng khó
trở thành hiện thực.Sự bi quan về tình hình chiến trường nam Việt Nam do thực
tế đang diễn ra bây giờ thậm chí đã lan tới giới lãnh đạo đặc biệt hơn nữa
chính với những người thân cận với Tổng thống Jonhson, điều này thể hiện rõ
nhất ở bài diễn văn của Robert Kennedy người vốn có lập trường ủng hộ nhiệt
tình và tin tưởng vào chiến thắng của Mỹ ở nam Việt Nam phát
biểu ngày 08/02/1968 ”trong 20 năm qua chúng ta đã sai lầm, lịch sử của các
cuộc xung đột giữa các dân tộc chưa bao giờ ghi nhận một sai lầm kéo dài và dai
dẳng như vậy”[7;152] qua bài phát biểu này cho thấy rằng chính những người có
lập trường cứng rắn ủng hộ chiến tranh cũng phải thay đổi lập và phương án thứ
hai được đưa ra đó là Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam ngừng ném bom miền Bắc
và thương thuyết với Bắc Việt Nam nhằm tìm ra một giải pháp hòa bình.Phương án
thứ hai này đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo người dân Mỹ và công luận quốc
tế nhưng sẽ mang lại hệ quả là vị thế của Mỹ về chính trị trên thế giới và Đông
Nam á bị suy giảm. Nhưng trước sức ép của dư luận cuối cùng Tổng thống Jonhson
đã quyết định chọn phương án này. “31/3/1968, Tổng thống Jonhson ra quyết
định rút quân quân về nước, ngừng ném bom vô thời hạn miền Bắc Việt Nam tìm
kiếm một giải pháp hòa bình trên bàn đàm phán tại Paris”[12;88] đồng thời
cũng không ra tranh cử nhiệm kì tiếp theo cùng với Tổng thống Jonhson còn có Bộ
trưởng Quốc phòng McNamara và chỉ huy quân đội Mỹ ở Việt Nam tướng Westmoreland
cũng từ chức đánh dấu sự kết thúc một thời kì khủng hoảng chính trị, xã hội sâu
sắc nhất lịch sử nước này.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968 đã có tác động mạnh mẽ đối với tình hình chính trị, xã hội nước Mỹ
làm cho người dân Mỹ nhận thấy được sai lầm của mình và quan trọng hơn nữa là
Mỹ đã phải xuống thang chiến tranh rút quân đội về nước ngồi vào bàn
đàm phán tại Paris tạo điều kiện thuận lợi để công cuộc giải phóng miền Nam
giành thắng lợi.
Tóm lại trong chương 1 chúng tôi đã
trình bày, phân tích những nét tổng quan nhất về cuộc tổng tiến công, cơ sở để
tiến hành từ tình hình chiến trường, tương quan lực lượng hai phía
trước chiến dịch và thứ hai là tác động của nó đến tình hình chính trị, xã hội
nước Mỹ đây là những quan điểm được nói đến nhiều nhất nhưng chỉ mới là một mặt
của vấn đề chúng tôi muốn phân tích đây là những kết quả mà quân giải phóng và
quân đội Bắc Việt đạt được sau cuộc tổng tiến công vẫn còn những vấn đề chưa
được hoặc ít được nói đến chúng tôi sẽ trình bày phân tích rõ hơn
trong chương 2.
Nhận xét
Đăng nhận xét