NHỮNG SAI LẦM VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ XÂY DỰNG, TIẾN HÀNH KẾ HOẠCH CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 - Phần 2

2.1.1 Tổng khởi nghĩa  từ lí luận đến thực tiễn.
Như đã trình bày ở chương 1 với những cơ sở về quân sự tại chiến trường Nam Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và kết quả đạt được sau cuộc tổng tiến công này là Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút quân về nước tạo bước ngoặt cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam nhưng đó chỉ là một phần của vấn đề chúng tôi muốn trình bày và phân tích vẫn còn những khía cạnh mà vẫn chưa được đề cập. Dưới góc độ khoa học Lịch sử  chúng tôi muốn làm rõ những những khía cạnh đó.
Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân nhìn toàn cục thì chiến thắng là của quân giải phóng và quân đội Bắc Việt Nam nhưng xem xét kĩ hoàn toàn ngược lại. Để xây dựng kế hoạch và tiến hành cuộc tổng tiến công là một quá trình dài và phải dựa lí luận để xây dựng nên kế hoạch nhưng từ lí luận để xây dựng nên kế hoạch rồi từ kế hoạch áp dụng vào thực tiễn đòi hỏi phải có sự linh hoạt để đáp ứng kịp thời những yêu cầu tác chiến do hoàn cảnh thực tế đặt ra trong khi đó kế hoạch thực hiện tổng tiến công vẫn còn những hạn chế được thể hiện rõ trong quá trình cuộc tổng tiến công diễn ra. Đầu tiên xét về mặt lí luận Ban đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy được đề ra và mang một tên khác là “tổng khởi nghĩa, tổng công kích” cái tên này ít được biết đến nhưng đây là tên đầu tiên được Trung ương Đảng đặt cho kế hoạch qua tên gọi chúng tôi thấy rằng mục đích của kế hoạch tấn công này khác và lớn hơn so với kết quả đã đươc.
Nhưng xét từng khái niệm qua tên gọi “tổng khởi nghĩa tổng công kích” có 2 vế trong tên gọi này đầu tiên là khái niệm  “khởi nghiã” theo tác giả Nguyễn Hữu Nguyên  nguyên cán bộ nghiên cứu viện Lịch sử quân sự Việt Nam khởi nghĩa “là sự nổi dậy của đông đảo quần chúng nhân dân, dùng bạo lực chính trị là biện pháp chủ yếu, vai trò của biện pháp quân sự chỉ là hỗ trợ”[12;23]
Tổng khởi nghĩa là khởi nghĩa đồng loạt trên phạm vi toàn quốc nhằm giành chính quyền ở trung uong
Theo Ănghen”trong mọi trường hợp cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi là vì quân đội(địch) từ chối không nổ súng,vì bọn chỉ huy quân sự thiếu tinh thần kiên quyết hoặc bọn chỉ huy đó bị bó tay”[16;175,] về sau căn cứ vào tình hình thực tế khi tiến hành cuộc cách mạng Tháng 10 Nga Lênin đã bổ sung thêm cho các điều kiện để khởi nghĩa thành công đó là “các giai cấp cách mạng đã sẵn sàng hi sinh vì cách mạng, các tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng”[16;177] trong cách mạng tháng 10 Nga giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã tổ chức bãi công chính trị làm tê liệt công việc sản xuất, các đơn vị quân đội của Sa hoàng cũng tổ chức binh biến chống lại Sa hoàng và đứng về phía cách mạng  và nhân tố quyết định quan trọng nhất đó là đông đảo quần chúng nhân dân đã tham gia giành chính quyền từ trung ương đến địa phương và giành được thắng lợi.
Từ cách mạng tháng 10 Nga cách mạng tháng 8/1945 cũng có đầy đủ những yếu tố  như cách mạng Tháng 10 Nga và theo tổng kết những yếu tố để khởi nghĩa giành thắng lợi các yếu tố đó là quân Pháp bị Nhật đảo chính vào ngày 9/3/1945 và mất quyền kiểm soát Đông Dương nhưng sau đó Nhật đầu hang đồng minh do thất bại ở chiến tranh thế giới thứ 2, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên non yếu,  bất lực và nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 đã làm nhân dân vùng dậy theo cách mạng  nhưng có sự sáng tạo trong đường lối chỉ đạo khởi nghĩa đó là giành chính quyền ở địa phương và sau đó mới dồn toàn lực tiến lên tổng khởi nghĩa trên toàn quốc và kết quả cuối cùng là giành được thắng lợi hoàn toàn.
Hai dẫn chứng thực tế về cách mạng Tháng 10 Nga 1917 và cách mạng Tháng Tám 1945 đã phản ánh đúng những gì mà Ănghen và Lênin đã nêu về những điều kiện để một cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi với sự tham gia của các thành phần giai cấp và tầng lớp trong xã hội trong đó yếu tố quyết định thắng lợi là quần chúng nhân dân. Oử cách mạng tháng Tám đã vận dụng sáng tạo hơn đó là khởi nghĩa từng phần sau đó tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Qua phân tích lí luận và thực tiễn ở các sự kiện lịch sử đã diễn ra quay lại xem xét phân tích lại vấn đề tổng khởi nghĩa ở  cuộc tổng khởi nghĩa, tổng công kích xuân Mậu Thân 1968 (tên gọi ban đầu của chiến dịch) có những điểm sau:
 Từ sau cách mạng tháng 10 Nga và cách mạng Tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam chưa có sự bổ sung mới về lí luận và thực tiễn cho khái niệm tổng khởi nghĩa cho nên khi phát động Tổng khởi nghĩa vào thời điểm năm 1968 thì không có sự sáng tạo linh hoạt trong cách tiến hành mà chỉ áp dụng một cách rập khuôn những điều kiện mà Ănghen và Lênin đã tổng kết như vậy dựa vào những gì mà Ănghen và Lênin tổng kết thì muốn giành được thắng lợi trong tổng khởi nghĩa phải tùy thuộc vào các yếu tố khách quan từ bên ngoài, sức mạnh thực tế của bên tiến hành Tổng khởi nghĩa và đối phương chứ không phụ thuộc vào sức mạnh và ý chí chủ quan của con người.
Theo đó trong hội nghị của bộ chính trị diễn ra vào tháng 10/1967 nhận định: “Đặt tổng khởi nghĩa, tổng công kích ngang hàng với nhau, lấy tổng khởi nghĩa làm trọng tâm mục đích là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân”[12;24] và đưa ra nhận định về tình hình trên thực tế là “Quần chúng nhân dân ở thành thị và các vùng địch còn tạm chiếm đã nhiều lần nổi dậy hàng triệu quần chúng đang sôi sục cách mạng và sẵn sàng vùng lên hi sinh bất cứ giá nào để giành cho được độc lập,  tự do, cơm áo và hòa bình”[12;24] qua hai nhận định trên của Bộ Chính trị thấy rằng cơ sở để nổ ra tổng khởi nghĩa có thể xảy ra, nhưng đây là nhận định được đưa ra trên lí thuyết còn trong thực tế có một số điểm chưa phù hợp:
Như chúng tôi đã phân tích ở những điều kiện quan trọng nhất để đưa đến thắng lợi của tổng khởi nghĩa mà Ănghen và Lênin tổng kết  là phải có sự tham gia và ủng hộ của quần chúng nhân dân, có sự tham gia của tất cả các tầng lớp, giai cấp mà giai cấp công nhân phải đi đầu đóng vai trò quyết định, giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất công nghiệp, chỉ khi nào động viên  công nhân tổ chức được các cuộc bãi công chính trị, làm tê liệt mọi hoạt động sản xuất kinh tế và các hoạt động xã hội khác như cắt đứt nguồn cung cấp điện, nước ,hệ thống thông tin liên lạc  thi mới làm vô hiệu hóa  suy yếu được chính quyền của đối phương. Tiếp theo là sự ngã theo cách mạng của các tầng lớp trung gian như tiểu tư sản, học sinh sinh viên xuống đường biểu tình giành chính quyền cùng với quần chúng nhân dân. Lực lượng thứ ba cũng đóng vai trò quan trọng là quân đội của chính quyền đối phương quay lung lại với chính quyền đó và chống lại nó.Phải hội tụ đầy đủ những yếu tố này thì tổng khởi nghĩa nghĩa mới thành công.
Xét trên thực tế dựa vào các yếu tố đã nêu so sánh với chiến dịch năm 1968 có thể thấy rằng phong trào công nhân ở Sài Gòn và cả Nam Việt Nam thời điểm 1968 được phản ánh trong báo cáo của ban công vận như sau: “công nhân lao động bị phân tán bởi rất nhiều tổ chức nghiệp đoàn, bởi âm mưu chia rẽ lực lượng công nhân của chúng… nên việc đấu tranh và phối hợp đấu tranh của quần chúng bị cản trở nhiều…
Thực chất trong cuộc Tổng công kích khi nổ ra ta chỉ có 9 chi bộ họat động biệt lập trong một số nghiệp đoàn nhỏ như vậy lực lượng quan trong nhất là công nhân đã chưa có đủ khả năng tham gia vào tỏng khởi nghĩa trong khi cuộc Tổng khởi nghĩ nổ ra rõ ràng đã không xảy ra các cuộc bãi công chính trị là tê liệt được các hoạt động của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó nhân dan lao động và tầng lớp học sinh, sinh viên, buôn bán nhỏ cũng không đủ khả năng tổ chức các cuộc biểu tình đấu tranh chính trị có sức lan tỏa rộng lớn, một mặt khác đời sống của nhân dân Sài Gòn và miền Nam vào thời điểm ấy chưa bức thiết và lâm vào hoàn cảnh như nạn đói năm 1945, nên chưa tạo ra được động lực để nhân dân đứng đậy khởi nghĩa. Còn với tầng lớp học sinh, sinh viên chiếm đông đảo nhưng cuộc sống còn phụ thuộc vào phụ huynh nên cũng khó có khả năng tạo nên sức ép đối với chính quyền, mặc dù lực lượng đông đảo cà hay tham gia vào đấu tranh đòi dân chủ mạnh mẽ trên khắp các đô thị miền nam lực lượng này cũng chưa có bản lĩnh để chịu những sức ép thử thách. Đối với quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vấn đề binh vận mặc dù đã xây dựng được các cơ sở ngay trong hàng ngũ binh lính nhung đa số là các binh lính có chức vụ thấp chưa xây dựng được cơ sở ở những cơ quan đâu não chưa vận động được các tướng lĩnh và đời sống của các binh lính cũng như tướng lĩnh VNCH ( Việt Nam Cộng Hòa ) khá đầy đủ về vật chất cũng như tinh thần nên việc tạo nên binh biến trong chính hàng ngũ là điều không khả thi. Tóm lại, “nhìn từ góc độ lý luận có thể đưa nhận xét vào thời điểm năm 1968 tình hình kinh tế xã hội ở Sài Gòn và các đô thị lớn ở miền Nam chưa xuất hiện tình thế của một cuộc tổng khởi nghĩa và trên thực tế đã không phát động được tổng khởi nghĩa” [12;26] từ thực tế đó chứng minh được rằng những tổng kết về mặt thực tiễn mà Ănghen và Lênin tổng kết nêu ra đã không được áp dụng một cách linh hoạt mà chỉ áp dụng rập khuôn trong cuộc Tổng khởi nghĩa – Tổng công kích nên đã không thành công.
2.1.2. Tổng công kích từ lý luận đến thực tiễn
Khái niệm tổng công kích: “Tổng công kích là tấn công quân sự trên phạm vi toàn chiến trường mà yếu tố thắng lợi là bên tấn công phải có sức mạnh tổng hợp của thế và lực lớn hơn và phải tuân thủ những nội dung khoa học của nghệ thuật quân sự” [12;26] trên thực tế mục tiêu của Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa được bộ chính trị xác định vào hội nghị tháng 10/1967 “tiêu diệt làm tan rã đại bộ phận quân ngụy… tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ… đập tan ý chí xâm lược của Mỹ[12;26] phương pháp để tiến hành tiến công là tấn công vào các đô thị lớn của miền Nam mà mục tiêu quyết định thắng lợi là Sài Gòn, tổ chức chiến đấu thành 5 cánh quân mỗi cánh có từ năm đến bảy tiểu đoàn được trang bị vũ khí hạng nhẹ, đặc biệt khu vực bên trong nội thành do lực lượng biệt động đảm nhiệm đánh chiếm các mục tiên quan trọng như phủ Tổng thống, đài phát thanh, Tổng nha cảnh sát theo kế hoạch được vạch ra thứ tự chiến đấu sẽ là lực lượng biệt động đánh và chiếm giữ các mục tiêu quan trọng lực lượng khỏi nghĩa cũng với các tiểu đoàn vòng ngoài tiến vào từng mục tiêu giành chính quyền về tay nhân dân. Ban tổ chức chỉ huy gồm có: ban chỉ huy cơ bản và ban chỉ huy tiền phương (cánh Bắc và cánh Nam), hợp đồng tác chiến lấy tiến nổ của pháo kích vào các trận đánh của biệt động làm hiệu lệnh, thời điểm tiến công là đêm giao thừa Tết Âm lịch 1968. Hiệu lệnh tiến công lấy bài thơ của Hồ Chí Minh đọc trên đài phát thanh
   Nhìn lại toàn bộ kế hoạch và diễn biến của mũi Tổng công kích ta thấy:
-Về chiến lược:rõ ràng tương quan về chiến lược và tương quan cục bộ ở Sài Gòn chưa nghiêng về phía ta. Mặc dù ban đầu, địch bị bất ngờ, rối loạn nhưng sau đó chúng nhanh chóng phục hồi khả năng phòng thủ Sài Gòn và các nơi quan trọng. Bằng cách điều động quân đội từ những nơi khác về thành phố, đã làm thay đổi nhanh chóng tương quan lực lượngtheo hướng có lợi cho chúng;
-Về nghệ thuật chiến dịch:ta không tổ chức chiến dịch tấn công mà chủ yếu  thiên về chiến đấu độc lập theo từng cánh, từng hướng. Trên thực tế, các hướng nổ súng không đều nhau, không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hướng, các đơn vị, thậm chí trong cùng một hướng các chiến sĩ cũng không có khả năng chi viện, hỗ trợ cho nhau. Từ đó, dẫn đến tình trạng đa số các hiệp đồng lớn đều không thực hiện được (biệt động chiến đấu đơn độc, các tiểu đoàn mũi nhọn không vào được mục tiêu phân công);
-Về vận dụng chiến thuật: chiến đấu tấn công trong đô thị có kiến trúc kiên cố phải được trang bị vũ khí đột phá có khả năng tiêu diệt địch trong các công sự. Nhưng thực tế, khi tiến hành tấn công do không được trang bị các loại vũ khí cần thiết nên các tiểu đoàn mũi nhọn của ta nhanh chóng bị địch tiêu diệt. Điển hình là các đợt tấn công vào Sài Gòn, quân ta phải chịu tổn thất rất lớn về nhân mạng.
   Tóm lại, về nghệ thuật quân sự, trên cả 3 tầng: chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật đều không tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của khoa học quân sự nên Tổng công kích không thành công.
(Còn tiếp...)

Nhận xét