Chế độ ruộng đất thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong


Chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong từ năm 1558. Trong suốt thời gian hơn 200 tồn tại và phát triển, chúa Nguyễn quan tâm và phát triển xứ Đàng Trong trở nên thịnh vượng và phồn hoa. Cũng như các triều đại khác, chúa Nguyễn cũng xem trọng và quan tâm đến vấn đề ruộng đất. Vấn đề ruộng đất ở Đàng Trong có nhiều điểm khác so với Đàng Ngoài thời kì này

2.3.2.1. Chính sách ruộng đất công
Vung đất phía nam là vùng đất mới so với miền bắc nên chúng tôi để riêng phần này mà phân tích. Về bối cảnh thì chúa Nguyễn vào đây lập nghiệp, cho đến thế kỉ XVII, ruộng đất không được phân biệt rõ ràng. Đến năm 1669, để chuẩn bị tiến hành theo lệ cũ, chúa Nguyễn sai người đi đo đạc ruộng đất đang được cày cấy đặt làm ruộng công, giao cho xã “chia đều mà cày cấy và nộp thuế” . Từ đó về sau, nếu ai khai khẩn thêm được bao nhiêu ruộng đất ở các vùng đồi núi thì cho phép đặt làm ruộng tư (gọi là bản bức tư điền), lấy thế làm lệ vĩnh viễn, dân xã không được tranh chiếm[1]. Ở miền Thuận Quảng, chúa Nguyễn đã công hữu hóa toàn bộ ruộng đất mà nhân dân khai phá từ mấy trăm năm trước, biến nó thành ruộng đất công làng xã như Đàng Ngoài, “lấy ruộng đất công làng xã làm ruộng của nhà nước”. Việc phân chia ruộng công không theo lệ như Đàng Ngoài mà chia đều cho mọi người. Vào thế kỉ XVIII, ở Thuận Hóa mỗi người được chia khoảng 5, 6 sào ruộng công, riêng lính thì được cấp gấp 3 số đó (từ 1 mẫu 5 sào – 1 mẫu 8 sào)[2].
Bên cạnh ruộng công làng xã, ở Đàng Trong còn có một số ruộng đất công khác được gọi là Quan điền trang và Quan đồn điền. Đây là những hình thức sở hữu nhà nước, tuy mang nhãn hiệu “quan” nhưng thực chất là sở hữu tư của chúa Nguyễn. Như nhận xét của Lê Qúy Đôn, quan tiền trang và quan đồn điền được “chúa Nguyễn lấy làm của tư, cho dân cày cấy và thuê người cày cấy mỗi kì sai người coi gặt, cho thuyền chở về để sung vào kho của chúa, cấp ngụ lộc cho người họ và bề tôi bện dưới đều lấy ở dưới cả”. Theo số liệu đưa ra, chúng ta thấy là trong tổng số 265.507 mẫu ruộng đất công, tư ở Thuận Hóa (theo con số 1770) có 6.494 mẫu 3 sào 12 thước 9 tấc quan đồn điền rải ra ở 6 huyện Hương Trà, Phú Quang, Đăng Xương, Hải Lăng, Minh Linh và Khang Lộc và 1.524 mẫu 14 thước 4 tấc quan điền trang rải ra 4 huyện Hương Trà, Minh Linh, Quảng Điền và Đăng Xương, tức là chưa được 3% tổng diện tích ruộng đất của cả dinh. Ngoài ra ở các huyện Tân Bình, Phúc Long thuộc phủ Gia Định còn có một số quan đồn điền chưa được đo đạc. Ruộng quan điền trang và quan đồn điền tuy khá tập trung nhưng vẫn không phải là một khu vực hoàn toàn biệt lập.
Khác với Đàng Ngoài, việc phong cấp ruộng đất ở Đàng Trong rất hạn chế về cả hai mặt: con người và diện tích. Theo Lê Qúy Đôn, những người được cấp ruộng ngụ lộc là: mẹ chúa: 10 mẫu, chưởng cơ: 5 mẫu, cai cơ: 4 mẫu, cai đội: 3 mẫu, 5 sào, Nội đội trưởng: 3 mẫu, Ngoại đội trưởng: 2 mẫu rưỡi. Tất cả lấy ở ruộng quan điền trang hay quan đồn điền chứ không đụng chạm đến ruộng công làng xã. Các chức quan dân sự, từ cấp dinh xuống cấp xã đều chỉ được cấp một số phu và người theo hầu để lấy tiền ở họ mà làm bổng lộc. Việc ban cấp ruộng đất như vậy, chỉ có tính chất hình thức. Về sau, bên cạnh việc cấp dân phu, chúa Nguyễn thỉnh thoảng có ban cấp ruộng thờ tự cho những người có công. Chẳng hạn, năm 1694, tiết chế Nguyễn Hữu Tiến được cấp 19 mẫu ruộng thờ tự ở hai xã Bồ Đề và Tùng Châu, 100 dân thờ tự ở xã Nghĩa An; tiết chế Nguyễn Hữu Dật được cấp 3 mẫu ruộng thờ tự ở xã Vinh Quang và 100 dân thờ tự ở xã Bao La. Năm 1703 Tham chính đoán sự Trần Đình Ẩn, 78 tuổi về hưu được chúa đặc ân ban 10 mẫu ruộng. Mãi đến năm 1768 mới thấy xuất hiện một trường hợp cấp nhiều ruộng thờ tự như việc truy cấp thiếu úy Hiệp quận công Tôn Thất Hiệp 300 dân thờ tự ở xã Vân Thư và 500 mẫu ruộng thờ tự ở xã Kim Đôi.
Khi ấy, kể cả ruộng công hay ruộng tư điều phải nộp thuế. Đây là yếu tố để giai cấp thống trị kiềm chế chế độ tư hữu. Song, chế độ này vẫn phát triển vì nó mang yếu tố khách quan trong xã hội.
2.3.2.2. Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất
Sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Đàng Trong dường như đã xuất hiện từ rất lâu. Nhân dân lao động từ Đàng Ngoài vào đây khai phá đất hoang, lập làng, sinh sống tương đối thoải mái, do đất rộng mà nhà nước chưa chú trọng nhiều. Ruộng đất được xem là “dân điền” và ít được đo đạc theo chế độ chung. Đòng thời, chúa Nguyễn cũng khuyến khích khẩn khoang lập thành ruộng tư, nhân dân lao động mất ruộng ở quê nhà cũng vào đây làm ăn ngày càng nhiều. Ruộng tư ữu hầu như bao trùm bên cạnh một số quan đồn điền hay binh đồn điền của chúa Nguyễn. Thậm chí, là những binh dân ở Đàng Ngoài bị bắt, dân đinh và tù binh trong chiến tranh với họ Trịnh, nhất là dân nghèo. Bằng nhiều cách khác nhau cho đến thế kỉ XVIII, một phần lớn đất Nam Bộ ngày nay đã được khai phá và biến thành một vùng đất trù phú. Chúng ta có thể tìm hiểu quyền sở hữu tư nhân theo từng vùng sẽ thấy rõ, vì đây là điều kiện đặc biệt của miền nam.
Ở vùng Thuận Hóa, mặc dù có một thời gian bị quản lí lỏng lẻo và dân lưu vong chiếm một tỷ lệ đáng kể, tính chất sở hữu ruộng đất như Đàng Ngoà. Hình thức sở hữu địa chủ vừa và nhỏ, phân tán mang ý nghĩa thống trị. Chảng hạn, quan Trần Đình Án được chúa Nguyễn tha thuế 30 mẫu sau khi ông chết. Ở Quảng Nam -  cực nam, sự tồn tại của các điền trang lớn tư nhân trở thành một đặc điểm nổi bật “Bấy giờ người giàu ở địa phương hoặc 40, 50 nhà, hoạc 20, 30 nhà, mỗi nhà đêu nuôi 50, 60 điền nô, trâu bò 300, 400 con, cày bừa, gặt hái, rộn ràng không lúc nào rỗi”[3].
Ruộng đất Đàng Trong nó mang tính chất khác so với Đàng Ngoài cho nên chính sách của chúa Nguyễn cũng khác hẳn. Tính chất đấu tranh của giai cấp không mạnh so với bên ngoài. Nhưng do nhiều yếu tố mà chế độ ruộng đất, nhất là quyền sở hữu ruộng tư đã tác động mạnh mẽ đến sự suy vong của chế độ.
Trần Hoàng
Trích từ Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX 


[1] Đại Nam thực lục tiền biên, NXB. Sử học, 1963, tr.112.
[2] Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.126.
[3] PGS.TS. Trương Hữu Quýnh (2004), Chế dộ ruộng đất Việt Nam thế kỉ XI – XVIII (sách tham khảo), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.433.

Nhận xét