Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Thế giới (1945-1949) - The Democratic Republic of Vietnam and the world, 1945 - 1949 - phần 1
Bài dịch từ The Democratic Republic of Vietnam and the world, 1945 - 1949 trong phần choossing sides (Chọn phe) dẫn theo Mari
Oslen (2006), Soviet-Vietnam relations and the Role of China (1949-1964):
Changing alliances, Nxb. Routledge
![]() |
Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2//1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH) được thành lập vào khoảng từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1945, tức là
ngay sau khi Phát xít Nhật đầu hàng. Vào Cách Mạng Tháng Tám (CMTT), các Ủy ban
cách mạng trung thành với mặt trận Việt Minh do những người Cộng sản lãnh đạo
đã chiếm được quyền lực ở tất cả những vùng trọng điểm của Việt Nam và đã thành
lập nền Dân chủ Cộng hòa mới, với Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Cuộc khởi nghĩa mang
tính chất tự túc độc lập, không có sự dính líu có ý nghĩa từ Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (CCP) hay Đảng Cộng Sản Liên Xô (CPSU). Thật vậy, sự thành công của
CMTT dường như đã đem sự bất ngờ đến cho những người cộng sản trên toàn thế giới,
và gần như ko có bất cứ báo cáo nào về những sự kiện ở Đông Dương trên báo Cộng
sản quốc tế.
Sau CMTT, những người đứng
đầu của VNDCCH, đặc biệt là Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, bắt đầu đi tìm kiếm đồng
minh. Cuối thập niên 1940, ông và các đại diện ngoại giao của mình đã chủ động
tìm kiếm sự hỗ trợ từ cả Liên Xô lẫn Mỹ, nhưng không đạt được hiệu quả nào. Mục
tiêu của chương này trước hết là để phân tích vai trò của những cuộc giao thiệp
ban đầu giữaViệt Nam và Liên Xô trong thời kỳ này dẫn đến sự công nhận VNDCCH từ
Liên Xô vào tháng 1 năm 1950, cùng lúc ấy cũng đánh giá quan điểm của Liên Xô
vào những năm đầu chiến tranh Pháp-Việt, và những cố gắng giúp đỡ đầu tiên của
ĐCSTQ đối với ĐCSVN.
Sự
đi tìm kiếm đồng minh của VNDCCH
Một tác giả cho rằng “Quan
hệ ngoại giao sau chiến tranh của VN với khu vực và thế giới bắt đầu với Thái
Lan năm 1945, chứ không phải với TQ vào năm 1950”. Những năm mà trước khi Liên
Xô và TQ thừa nhận sự tồn tại của VNDCCH vào 1/1950, trong khi Việt Minh tiến
hành chiến tranh du kích chống lại các lực lượng của thực dân Pháp, chỉ có chút
ít liên hệ giữa Việt Nam và Liên Xô. Tuy nhiên, trong những năm đó có một vài cố
gắng xây dựng mối quan hệ do phía VN tạo ra. Mặc dù nỗ lực bảo đảm sự giúp đỡ của
Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp đã thất bại, nhưng chúng đã tạo
ra một nền tảng quan trọng cho sự thiết lập mối quan hệ giữa VN-Liên Xô vào những
năm sau khi Liên Xô thừa nhận VNDCCH. Chúng cũng làm nổi bật sự thật quan trọng
rằng những người Cộng sản Việt Nam đủ khả năng quản lý các vấn đề đối ngoại một
cách độc lập trước cả sự chiến thắng của người Cộng sản Trung Quốc 1949-1950 và
có thể giúp giải thích được tại sao nhân tố TQ trở thành đặc điểm quan trọng nhất
trong chính sách của Liên Xô đối với VN vào 2 thập niên tiếp theo đó.
Giữa khoảng CMTT và sự
bùng nổ chiến tranh vào tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh và chính phủ của ông tìm
kiếm đồng minh có thể đảm bảo hỗ trợ chống cuộc tái xâm lăng của thực dân Pháp ở
miền nam Việt Nam và đóng góp vào công cuộc xây dựng của VNDCCH ở miền Bắc.
Trong lúc tìm kiếm đồng minh, chính phủ VNDCCH đã cố gắng xây dựng liên minh hoặc
thu hút sự hỗ trợ nhà nước mới của mình trong khu vực ĐNÁ, với Mỹ, Liên Xô hay
chính quyền của Tưởng Giới Thạch/ Trung Hoa Quốc dân Đảng. Nỗ lực đầu tiên được thực hiện ngay
sau CMTT là khi Hồ Chí Minh đã gửi điện tín đến cả Stalin và Truman để yêu cầu
được công nhận và hỗ trợ. Không có bất cứ tín hiệu nào hồi đáp từ hai bên. Hợp
tác với Tưởng Giới Thạch cũng đã thất bại vì chính quyền Tưởng đã đồng ý với
Pháp triệt thoái quân đội của mình khỏi miền Bắc VN. Sau khi chiến cuộc toàn diện
bùng nổ từ năm 1947, chính phủ VNDCCH đã lấy Băng Cốc làm lối thoát ngoại giao
chính.
Mặc dù
chính quyền Thái Lan không công nhận VNDCCH, nhưng họ cho phép lập “Văn phòng đại
diện của VNDCCH” ở Băng Cốc vào cuối mùa hè năm 1946. Văn phòng này được thiết
lập nhờ Việt Nam ở Thái Lan và bắt đầu hoạt động đầy đủ từ ngày 14 tháng Bảy
năm 1947. Văn phòng được chính phủ quốc gia cấp tiến của Pridi Banomyong ưu ái.
Theo một tác giả Việt Nam, văn phòng Băng Cốc đã nhận tiền và các loại quỹ từ
Pridi, ngườiđã cho phép người VN lập căn cứ ở vùng biên giới nơi mà quân lính
có thể tập luyện trước khi được gửi qua Lào và Campuchia rồi đưa vào VN. Băng Cốc
là điểm liên lạc quân sự vô cùng quan trọng vì nhiệm vụ ngoại giao của VNDCCH ở
đây có thể mở đầu và duy trì liên lạc với các nước ĐNÁ khác và TG qua đại sứ
quán Thái Lan ở các nước sở tại. Văn phòng này không được thừa nhận như một tòa
công sứ hợp pháp hoặc đại sứ quán nhưng đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề
đối ngoại của VNDCCH. Băng Cốc đối với VNDCCH giống như cửa ngỏ
mở ra thế giới, trước khi cuộc đảo chính bảo hoàng nổ ra ở Thái Lan vào năm
1948, sau đó Ragoon tiếp quản một số vai trò của Băng Cốc. Người đứng đầu mới ở
Thái Lan từ năm 1948 đã bãi bỏ biểu tượng ngoại giao của văn phòng đại diện
VNDCCH, và buộc nó giảm thiểu hoạt động của mình.
Trong năm 1947, Băng Cốc
là nơi các vở kịch của những pha đấu trí giữa chính quyền Việt Nam và Mỹ, và
cũng giống như Liên Xô và Việt Nam. Cuộc đấu trí giữa Hồ Chí Minh và chính quyền
Mỹ ở Pháp và Việt Nam là tiêu biểu cho không khí thân thiện và tôn trọng. Thái
độ của người Mỹ đối với chủ nghĩa thực dân và sự độc lập của Philippines có thể
đã cung cấp hy vọng cho một vài lãnh đạo Việt Nam rằng nước Mỹ có thể hỗ trợ Việt
Nam để đối đầu với Pháp hoặc ít nhất là đem đến 1 áp lực vừa phải cho Pháp.
Trong khoảng đầu năm 1947, ngay sau cuộc chiến tranh toàn diện giữa Việt Nam và
Pháp, VNDCCH đã đưa ra 1 sáng kiến ngoại giao dài 4 tháng để bảo đảm sự hỗ trợ của chính quyền Truman. Sáng kiến
này do Tiến sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng đầu, là Bộ trưởng y tế và là 1 trong những
cận sự gần gũi nhất của Hồ Chí Minh. Từ tháng 4 đến tháng 6, Thạch đã tiếp xúc
với người Mỹ ở Băng Cốc để đưa ra vài đề xuất. Giữa những lời kêu gọi được công
nhận, những yêu cầu cho sự hỗ trợ gián tiếp cho cuộc chiến với Pháp, hay cho Việt
Nam vay tiền để phục hồi, những sự nhượng bộ về kinh tế của doanh nghiệp Mỹ ở
Việt Nam, yêu cầu thiết yếu về hỗ trợ công nghệ và sự trao đổi văn hóa. Tuy
nhiên, giống như những cố gắng của Hồ Chí Minh để đảm bảo sự hỗ trợ của người Mỹ
ngay lập tức sau CMTT, những sáng kiến của Phạm Ngọc Thạnh vào nửa đầu năm 1947
đã thất bại.
VNDCCH đã bắt đầu bắt tay
vào xây dựng đất nước còn yếu ớt của
mình trong 1 thời kỳ mà thế giới đều đang rối loạn. Thời điểm ngay trước chiến
tranh Lạnh, sự sợ hãi Cộng sản đã và đang lớn dần lên và lan rộng trong các nhà
hoạch địch chính sách của nước Mỹ. Mặc dù có nhiều các đánh giá thiện chí từ
chính phủ Mỹ ở cả VN lẫn Đông Nam Á, nhưng chính quyền của Hồ Chí Minh vẫn
không nhận được bất cứ hỗ trợ nào từ chính quyền của Truman. Sự tiếp xúc của
VNDCCH với nước Mỹ phải được đánh giá trong bối cảnh tình hình mối quan hệ của
Việt Nam với nước Pháp. Những cảm tình sau kết quả của cuộc chiến chống thuộc địa
hóa đã thắng thế trên vũ đài quốc tế nhưng chỉ có 1 sự trái ngược riêng biệt,
đó là thái độ của người Pháp đối với những thuộc địa trước đây. Để chống lại
nguy cơ thuộc địa hóa lần nữa của thực dân Pháp , Việt Nam cần một đồng minh mạnh
và độc lập để được hỗ trợ.
Song song sự tiếp xúc với
người Mỹ, VNDCCH cũng tìm kiếm sự hỗ trợ từ Liên Xô. Như trong trường hợp với
người Mỹ, vào nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, liên kết với Mátx-cơ-va mở
đầu và sau đó vẫn duy trì mạnh qua đại diện của VNDCCH ở Băng Cốc. Hồ Chí Minh
đã có sự liên kết mạnh mẽ với thế giới Cộng sản trước chiến tranh khi mà ông đã
từng làm việc tại Quốc tế Cộng sản lần thứ 3, vai trò của ông với Đảng Cộng sản
Pháp, và không phải ít nhất, sự ở lại lâu dài của ông ở Mátx-cơ-va. Vẫn ngay
trong giai đoạn sau CMTT, chính quyền VNDCCH đã không đảm bảo thành công được nguồn nguyên liệu hỗ
trợ trong tương lai của các đồng minh Cộng sản. Ở điểm này Mao Trạch Đông đã
không giữ được sức mạnh của mình ở TQ và còn rất xa. Và Liên Xô cũng vậy.
Các nguồn tài liệu của
Liên Xô miêu tả lại cuộc chạm trán giữa chính quyền VN và Liên Xô như thế nào
vào đầu mùa xuân năm 1947. Từ ngày 23 tháng 3 đến này 2 tháng 4, 1 đại diện của
Liên Xô dẫn đầu là đồng chí Zhukov và Plishevskii đã tham gia vào Hội nghị quan
hệ Châu Á tại New Delhi. Trong khoảng thời gian hội nghị, các đại diện Liên Xô
đã gặp Trần Văn Giàu, trước là lãnh đạo CMTT ở Sài Gòn và miền Nam VN, và là
người đại diện VN đến hội nghị này. Trần Văn Giàu miêu tả tình huống ở VN lúc
đó là một thảm họa và thay mặt Chủ tịch Hồ chí Minh yêu cầu sự giúp đỡ từ
Mátx-cơ-va. Theo ông Giàu, người Pháp đã từ từ thắt chặt sợi dây thừng lên hầu
hết xung quanh mọi tầng lớp người Việt Nam.[…] và sẽ nghiền nát hoàn toàn nền
DCCH chỉ từ 4 đến 5 tháng. Nhưng họ đã không chú ý đến một điều rằng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam có được sự hỗ trợ hoàn toàn và niềm tin trung
thành của người dân Việt Nam. ‘VN cần sự giúp đỡ ngay lập tức’ ông tiếp tục và
khẳng định rằng vấn đề lớn chính là sự thiếu thốn vũ khí. Chính quyền Việt Nam
trước hết cần tiền để mua vũ khí qua Trung Quốc. Thêm nữa, Trần Văn Giàu nhắc lại
với những người đại diện của Liên Xô rằng sự giúp đỡ mang tính ngoại giao cũng
được đánh giá rất cao.
Cuộc gặp gỡ giữa Trần Văn
Giàu, Zhukov và Plishevskii cũng cùng thời điểm khi Phạm Ngọc Thạnh tiếp xúc với
người Mỹ ở Băng Cốc. Tuy nhiên, trong những năm đầu sau Thế chiến thứ , Liên Xô
đã dành sự lo lắng của mình về sự phát triển của châu Âu trước. Hậu sau châu Á,
Mátx-cơ-va đầu tiên và trước hết dành sự chú ý đến Indonesia, và tất nhiên có
Trung Quốc và Hàn Quốc, nhưng có chút quan tâm với những nước đấu tranh giành độc
lập ở Đông Dươn trước năm 1950.
Chiến
thuật của Liên Xô ở Đông Nam Á
Chiến thuật ở Đông Nam Á
nói chung trước, và đặc biệt là với VNDCCH, đề nghị rằng những năm đầu VNDCCH mới
xuất hiện, Liên Xô đã xuất hiện và có sự đồng cảm tương đối với Việt Minh, mặc
dù không có cam kết hay bất cứ sự giúp đỡ đặc trưng nào mà Việt Nam có thể đòi
hỏi. Vào những năm đầu sau chiến tranh, Liên Xô không muốn làm rối mối quan hệ
với Paris, nơi mà những người Cộng sản từng là 1 phần của chính quyền cho đến
tháng 3 năm 1947. Thực tế này xói mòn đi những đề xuất rằng Liên bang Xô Viết,
sớm nhất là 1947, đóng vai trò như người trung gian cho các Đảng Cộng sản ở VN.
Trong việc phân tích về
chiến thuật của Liên Xô tại Đông Nam Á, Chales B. Mclane đã phân biệt về 2 sự phát
triển riêng biệt nhau, khi mà tiêu biểu hóa chiến thuật thuộc địa của
Mátx-cơ-va trong giai đoạn từ năm 1947 đến năm 1950. Từ năm 1945 đến năm 1947
Mátx-cơ-va dường như đã theo chiến thuật khá là ôn hòa. Một thay đổi đã xảy ra,
theo Mclane, hướng tới cuối năm 1947, khi Zhdanov đã chỉ định 1 dòng chiến đấu
trong các chính sách nước ngoài của Liên Xô. Điều này đã được tăng cường hơn nữa
với quân điểm của người Trung Quốc (Lưu Thiếu Kỳ) đến năm 1949 và đầu năm 1950
– những quan điểm này đã rõ ràng chủ động hơn trong vấn đề hỗ trợ Cách mạng Cộng
sản là so với sự phát nguồn của Liên Xô. Một sự phát triển quan trọng tương
đương theo Mclane đó là cú ngoặt từ châu Âu sang châu Á. Bước chuyển này bắt đầu
xuất hiện từ hội nghị Calcutta vào năm 1948, và tiếp tục với sự thành lập của Đảng
Cộng sản Trung Quốc của Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa vào mùa thu năm
1949.
Vào những năm tiếp theo của
THế chiến thứ 2, sự chú ý của Stalin tập trung vào châu Âu. Đương nhiên là những
người lãnh đạo Xô Viết sẽ lo lắng hơn nhiều mối quan hệ với Pháp, Vương quốc
Anh, Trung Quốc hơn là các sự kiện ở Đông Dương. Không có 1 ghi nhận nào về sự
yêu cầu giúp đỡ của VN từ phía Liên Xô. Khi sự đàm phán giữa Hồ Chí Minh và người
Nháp thất bại vào tháng 12 năm 1946, chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ, Liên
bang Xô Viết không thực sự cân nhắc xen vào vấn đề này. Bỏ qua thực tế tằng chiến tranh Pháp-Việt Minh 1 trường hợp
đầu tiên về sự đụng độ giữa chủ nghĩa đế quốc và 1 nước thuộc địa, Mátx-cơ-va
đã đánh giá thấp cuộc chiến mà đã tác động trực tiếp lên quá trình xảy ra các sự
kiện khắp miền Đông. Liên Xô bất đắc dĩ phải có liên quan trực tiếp với các
tình huống của Việt Nam tăng cường sự quan trọng của Mátx-cơ-va tiếp xúc với mối
quan hệ hợp lý với các nước châu Âu, đặc biệt là Pháp và Mỹ.
Người dịch: Lê Nam
Hiệu đính: Trường Minh
Nhận xét
Đăng nhận xét