Quá trình giải quyết nguy cơ nạn đói ở thành phố Hồ Chí Minh trước công cuộc đổi mới năm 1986

Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) khi được giải phóng vào ngày 30/04/1975, cả nội các của tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng chính quyền cách mạng, chính quyền mới được thành lập. Năm 1976, cuộc tổng tuyển cử diễn ra, nước Việt Nam thống nhất lấy tên là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, do bí thư thành ủy Võ Văn Kiệt đảm nhận vị trí lãnh đạo thành phố. Với những chủ trương của lãnh đạo, thành phố Hồ Chí Minh có thể tránh khỏi tình trạng thiếu lương thực, vì có địa hình quan trọng là nằm giữa một vùng lương thực, thực phẩm phong phú”. Do đâu mà tình trạng này xuất hiện. Một phần là do cơ chế quản lý của nhà nước và những hạn chế của nó. Chúng ta cùng nhau xem xét những chủ trương của Đảng về thị trường, tiền tệ và lương thực. Những quan điểm đó, đã có những ảnh hưởng lớn đến thực trạng thiếu lương thực ở thành phố Hồ Chí Minh, nguy cơ nạn đói ở đây dần xuất hiện và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nhân dân thành phố đang đối mặt với một hiện trạng chưa từng có. 


2.1. Nguy cơ nạn đói diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh

Những định hướng của lãnh đạo thành phố về phát triển thành phố từ tiêu thụ lớn sang sản xuất là một bước phát triển mới từ trước đến nay. Nhưng do tình trạng ngăn sông cấm chợ với những chủ trương của đảng và chính phủ đã làm cho tình trạng trở nên khó khăn, nguy cơ nạn đói diễn ra khắp nơi trong thành phố.
Trước năm 1975, lương thực thành phố do thị trường tự do cung cấp. Như trước đã nói, thành phố Hồ Chí Minh trước đây là một thành phố tiêu thụ rộng lớn, chưa có sản xuất. Các thị trường tự do hình thành hàng thế kỉ, gồm các chủ chành, chủ vựa gạo ở miền tây. “Họ mua gom lúa của các điền chủ, xay xát, vận chuyển lên thành phố theo một mạng lưới được đặt tại các chợ. Những chợ bán gạo chủ yếu ở thành phố như chợ Trần Chánh Chiếu có hơn 400 sạp gạo, chợ Cầu Muối, chợ An Lạc gồm một trăm sạp. Các chợ khác không chuyên bán gạo thì cũng có vài chụp sạp bán gạo. Những sạp bán gạo này đều là những cửa hàng bán lẻ, chân rết của những nhà kinh doanh lớn về lúa gạo ở miền
Nam,.”[1]. Với một mạng lưới rộng lớn như vậy, gạo thị trường tự do này đã chi phối hầu hết gạo thành phố lúc đó. Lúc đó, kinh tế thị trường đang hình thành ở miền nam, nên các chợ phát triển mạnh mẽ, rầm rộ. Dân gọi gạo đó là gạo theo giá thị trường.
Nhưng từ sau giải phóng, chính sách quản lý thị trường của nhà nước gây ra hết sức khó khăn, những hạn chế từ chính sách “ngăn sông cấm chợ”, những địa phương tự túc và không có hiện tượng buôn bán với các vùng khác. Tình trạng cung ứng gạo cho thành phố hết sức khó khăn. Mặc dù, lãnh đạo thành phố có định hướng phát triển sản xuất nhưng hiện trạng đó cũng gặp không ít khó khăn.
Việc thiếu lương thực, thiếu gạo ở thành phố không phải đảng và nhà nước, các lãnh đạo thành phố không quan tâm và tính toán mà đã việc này đã xuất hiện từ lâu. Trung ướng cục đã có kế hoạch chuẩn bị lương thực cho thành phố từ khi chưa giải phóng, “vì tính rằng sau ngày giải phóng, những sự đảo lộn trong đời sống sẽ làm cho mạng lưới phân phối lương thực bị ách tắc. Hàng hóa khác có thể tạm thời thiếu, mà giải phóng xong để cho dân thành phố thiếu gạo thì không thể được”. Trong việc phân công của Trung ương Cục đối với bà Ba Thi cũng có nói “bà về miền tây phối hợp với các cơ sở dịa phương tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh đánh từ miền tây trở lên, giải phóng các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, phối hợp với toàn miền Nam theo ké hoạch đã định… Bà về dưới đó giải phóng xong, rồi đem về 5 chài gạo cho dân Sài Gòn”.
Do vậy, tình hình giải quyết gạo ở thành phố đã được tính toán từ rất lâu, trước ngày giải phóng. Khi giải phóng thành công, do những cơ chế quản lý, những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã gây ra không ít khó khăn trong vấn đề lương thực. Những nổ lực lúc đó của Trung ương cục đã một phần nào góp phần giải quyết nguy cơ nhưng cũng khó thoát khỏi tình trạng. 
Những chính sách, chủ trương của đảng về giá thua mua, huy động lương thực càng làm cho dân không buôn bán với nhà nước mà đem ra thị trường bán. Từ năm 1978, giá 1 kg gạo trên thị trường đã lên hơn 1 đồng, rồi 2 đồng, thì giá gạo 5 hào của các cửa hàng mậu dịch, gọi là "gạo tổ", trở thành điều hấp dẫn, tuy chất lượng rất kém. Người ta xếp hàng có khi nửa ngày trời để mua mấy cân gạo. Những gia đình có nhiều tiền, có thể ăn gạo ngon trên thị trường tự do, vẫn cho người giúp việc ra xếp hàng để mua "đủ tiêu chuẩn" về cho heo, gà ăn hoặc bán ra ngoài lấy lời. Cũng từ thời kỳ này, người dân bắt đầu gọi XHCN là xếp hàng cả ngày gọi cách bán của quốc doanh là "bán như cho". 
Thị trường tự do càng trở nên phát triển mạnh mẽ hơn từ chính sách của nhà nước, điều đó đi ngược lại những gì mà Nhà nước yêu cầu tiến hành.Với tiêu chuẩn phân phối 9 kg/người thì 4 triệu dân thành phố phải cần 530.000 tấn gạo. Nhưng Nhà nước chỉ có thể huy động được 1 triệu tấn/năm trên phạm vi toàn quốc. Thành phố Hồ Chí Minh dù rất cố gắng nhưng những năm 1970 – 1980 chỉ phân phối được trung bình 6kg cho mỗi người dân. Người dân thành phố từ đó phải ăn độn khoai mì, khoai lang, kể cả bo bo, thứ hạt cứmg ngắc mà Liên Xô viện trợ với gạo dư một cách ít ỏi.

2.2. Ý tưởng “xé rào” của lãnh đạo thành phố và hoạt động thu mua lúa gạo của “tổ thu mua lúa gạo” đưa đến giải quyết nguy cơ nạn đói.

2.2.1. Ý tưởng “xé rào” của lãnh đạo thành phố.



Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, bà Ba Thi và ông Lữ Minh Châu (đứng thứ hai, ba, tư từ phải sang) - Ảnh tư liệu của ông L.M.C. Nguồn: tuoitre.vn



Những tình hình khó khăn như vậy, xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân đó là sự “ngăn sông cách chợ”, là chính sách thu mua của nhà nước, của đảng, những khó khăn do thị trường tự do mang lại, “Lúc này đất nước đã thống nhất được năm năm và mùa này lúa ở ĐBSCL cũng vừa gặt xong, chất đầy bồ. Thế mà TP quá đói mặc dù người dân sẵn sàng bỏ tiền mua gạo. Nguyên nhân chính là Sở Lương thực hay Công ty Lương thực dẫu có tiền cũng không thể mua được lúa của dân vì Ủy ban Vật giá qui định giá mua quá thấp, bà con không bán”[2] .Điều này làm cho tình trạng nạn đói diễn ra khắp cả nước, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh. Những nguy cơ được nêu ở trên có thể dẫn đến việc thiếu lương thực trầm trọng, “Tình hình căng thẳng lắm rồi, lượng gạo dự trữ chỉ còn đủ vài ngày. Nguồn cung cấp của Bộ Lương thực hứa thì không chắc, mà thực tế là luôn trễ và thiếu hụt rất lớn. 4 triệu dân thành phố chỉ không có gạo để ăn một ngày là thảm họa”[3]. Do đó, cần có một giải pháp để giải quyết nguy cơ từ chính những lãnh đạo của thành phố.

Đến mức dường như dần cạn kiệt gạo, nạn đói dần ập tới, những nhà cách mạng lão thành, những người lãnh đạo thành phố lúc bấy giờ đã có ý tưởng “xé rào”, đưa nhân dân thoát đói, với ý chí dứt khoát ““Không để một người dân nào chết đói”.
Trong một lần hợp với lãnh đạo các tỉnh Tây Nam Bộ bàn về giá mua lúa. Khi đó, chính phủ quy định giá lúa mau không quá 8 đồng/kg, kể cả lúa giống, dẫn đến tình trạng không mua được lúa xuống giống cho kịp vụ đông xuân, hệ quả năm sau còn thiếu đói trầm trọng. Khi đó, ông Võ Văn Kiệt nói: “Một là để dân đói nhưng các đồng chí giữ nguyên chức vụ nếu theo đúng chỉ đạo, mua lúa giống không quá 8 đồng/kg. Hai là dân no, khắc phục được ngay hậu quả, kịp vụ nhưng các đồng chí mất chức. Các đồng chí chọn cách nào? Vậy là các đồng chí ấy chọn cách thứ hai”[4]. Ông còn nhấn mạnh quan điểm “ Không có chủ trương nào của Đảng, Nhà nước làm cho dân đói khổ, cán bộ lo cho dân no lại bị kỷ luật. Còn nếu cấp trên nghiêm, cứng, cứ yêu cầu phải kỷ luật để làm gương, thì thà chịu mất chức còn tốt hơn là ngồi đó để thấy dân mình đói khổ.”
Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh, tiêu biểu là ông Võ Văn Kiệt, bí thư thành ủy lúc bấy giờ đã nêu lên kiên quyết “xé rào” để cứu đói cho nhân dân thành phố nói riêng, nông dân ở các tỉnh miền Tây nói chung. Vì ông muốn thay đổi giá mua lúa, mua gạo theo giá cao hơn giá Nhà nước để “cứu” những gạo dư thừa, mang gạo đó đến những nơi đang theo gạo nghiêm trọng.
Về giải quyết nguy cơ nạn đói ở thành phố, Võ Văn Kiệt và các lãnh đạo thành phố cũng nhất quyết “xé rào” để mua gạo các tỉnh miền tây về cứu đói cho người dân. Bí thư Võ Văn Kiệt trong một buổi “ăn sáng” với các đồng chí lãnh đạo đã bàn bạc và đưa ra kết luận ngay: “Trong buổi sáng nay, UBND TP sẽ có văn bản yêu cầu Sở Tài chính đồng ý cho ngân hàng xuất tiền cho Công ty Lương thực. Công ty và Sở Thương mại phải tổ chức mua lúa gạo phân phối cho nhân dân. Việc hôm nay chúng ta đang làm có thể gọi là thành lập tổ buôn lậu gạo. Nhưng thực chất là cứu đói cho dân. Ngày mai chị Ba Thi xuống ĐBSCL mua lúa đúng giá chợ, về xay xát bán cho bà con không cần lấy lãi”[5]. 
Đây là một quyết định mạnh mẽ, vượt qua “hàng rào” để cứu dân thoát đói và đây cũng là nền tảng để “tổ thu mua lúa gạo”, tiền thân của công ty lương thực thành phố  thành lập và hoạt động để thu mua gạo ở miền tây cứu đói cho dân thành phố. Ông Võ Văn Kiệt còn nói: “Nếu do việc này mà anh chị đi tù thì tôi sẽ mang cơm nuôi” đã thể hiện sự quyết tâm của các lãnh đạo thành phố, phải “xé rào”, cứu dân thoát nguy cơ nạn đói. Theo nhà nghiên cứu Đặng Phong nhận xét: “Thật là hồng phúc cho dân khi có những người lãnh đạo không những đã từng can đảm xông pha trong kháng chiến để giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm, mà còn cả gan đứng ra chịu mọi trách nhiệm để có thể lo cho dân, vượt qua những ràng buộc, những lẽ thói cũ kĩ. Nếu như không có những con người như thế chắc không có đột phá”.

2.2.2. Hoạt động thu mua lúa gạo của “tổ thu mua lúa gạo”.

Khi đã có quyết định “xé rào” của lãnh đạo thành phố, tổ thu mua lúa gạo do bà Ba Thi làm tổ trưởng đã từng bước hoạt động. Cách thức hoạt động của tổ thu mua lúa gạo “Tổ thu mua lúa gạo dùng tiền tạm ứng của ngân sách để mua lúa, rồi sử dụng ghe thuyền và xe vận tải chở về”. Ngoài dùng tiền để mua ra, “tổ thu mua lúa gạo” còn sử dụng hàng hóa để trao đổi với nông dân địa phương để được gạo. “Thành phố sẽ chuẩn bị một số hàng. Ngay trong các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cũng có những nguồn cung cấp hàng: có tỉnh thừa xi măng nhưng thiếu sợi, có tỉnh thừa sắt thép nhưng thiếu phân, bà Ba Thi liên lạc với các tỉnh để nắm nguồn hàng dư thừa đó, đổi hàng khác cho họ, rồi lấy hàng đổi thóc cho nông dân”[6]
Cách thức hoạt động của “tổ thu mua lúa gạo” hoạt động nhằm mang gạo về cho người dân thành phố với việc “mua sát giá thị trường hoặc đổi hàng cho địa phương”. Việc này đã giúp cho nông dân bán được lúa và giảm đi tình trạng dư thừa lúa gạo, mặt khác giải quyết được tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng ở một số địa phương. “Ở nông thôn, cần dầu lửa thắp đèn, cần vải để may quần áo để đi làm ruộng, cần thuốc uống trị bệnh lúc ốm đau… Càm xấp tiền mới lúc đó (500 chế độ cũ đổi một đồng tiền mới), không có gì để mua”..
 “Đặc biệt, các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau là những nơi rất thiếu hàng công nghiệp trong khi lại thừa lúa, nên nông dân đem thóc đến đổi hàng rất nhiều. Khi có lũ lụt xảy ra ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, nông dân Hậu Giang, Đồng Tháp, Cửu Long, An Giang thiếu giống để cấy lại. Bà Ba Thi xin ý kiến Thành ủy, chạy tìm mua lúa tốt để làm giống về đổi cho bà con, khi đến vụ gặt họ trả bằng lúa. An Giang đang cần xi măng và sắt thép để xây dựng cầu đường trong các huyện Châu Phú và Phú Tân, bà Ba Thi tìm đủ số vật tư đó thông qua các bạn bè ở các tỉnh, các nghành, các bộ để giúp đỡ An Giang. “Tổ thu mua” An Giang trả bằng lúa, nhờ tỉnh xay và chở về thành phố.”[7]
Về việc dùng tiền để mua sát giá thị trường, “Tổ thu mua lúa gạo” khi tới các chợ ở các tỉnh “rút tiền mua lúa công khai với giá 3 đồng/kg. Bà con nông dân mừng quá tranh nhau cân lúa. Lãnh đạo địa phương các tỉnh nghe tin đây là kế hoạch của anh Sáu cũng hết sức tạo điều kiện bằng cách “làm ngơ”.”[8] Như vậy, giá mua lúa gạo của tổ cao hơn giá mua của nhà nước, cho nên về cơ bản việc mua bán ổn định. Do giá thị trường ở đây được hiểu là cả hai phía đều quy đổi mặt hàng của mình ra giá thị trường tại Thành phố Hồ Chí Minh cộng phí chuyên chở và các chi phí quản lý, tổng cộng lại thì sẽ thấp hơn nhiều so với giá của thương nhân bán trên thị trường tự do tại miền tây. Vì thế nông
dân sẵn sàng đổi thóc. Việc này đã hạn chế được đầu cơ tích trữ của thương nhân.
Việc vận chuyển lúa gạo về thành phố Hồ Chí Minh khi đó cũng không dễ dàng gì. Vì khi đó, trên đường vận chuyển về thành phố có rất nhiều trạm kiểm soát dày đặc có toàn quyền bắt bớ bất kỳ ai. Trong thời “ngăn sông cấm chợ” không những đưa bao gạo về là khó huống chi là cả xe tải gạo về thành phố Hồ Chí Minh. Với lại, “tổ thu mua lúa gại” của bà Ba Thi không có danh nghĩa gì rõ ràng theo chủ trương của Nhà nước. Nên bà Ba Thi nhờ xe quân đội, do bộ đội lái, xe mang biển đỏ, có súng đi kèm để chở lương thực về thành phố, không ai có thể cản trở được.
Như vậy, việc thu mua lúa gạo của “tổ thu mua lúa gạo” của ba Ba Thi đã tiến hành giao dịch thành công với nông dân, mua được gạo về để giải quyết nguy cơ cứu đói cho nhân dân thành phố và giải quyết được tình trạng khan khiếm hàng hóa của địa phương. Một hoạt động có lợi cả hai mặt, là một bước đột phá mạnh mẽ của lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh.

2.3. Kết quả và những bài học kinh nghiệm

Việc giải quyết vấn đề nguy cơ nạn đói ở thành phố Hồ Chí Minh lúc đó đã đạt kết quả rất hiệu quả. “Lúa về TP được xay xát rồi chia cho các cửa hàng lương thực, các chợ bán cho bà con đúng giá vốn: 5 đồng/kg gạo. Trong khi người TP phải bỏ 7-8 đồng/kg mua của tư thương lén lút như người ăn trộm mà cũng không đủ ăn thì lúc này vui mừng khôn tả. Sự việc được báo cáo về trung ương. Trung ương triệu tập bà Ba Thi ra Hà Nội. Làm việc với bà là người lãnh đạo cao nhất của Đảng: Tổng bí thư Lê Duẩn. Tổng bí thư ngồi yên lặng nghe bà Ba Thi báo cáo đầy đủ tình hình từ đầu đến cuối. Sau cùng ông nói: “Cô Chín Ráo làm như vậy là đúng!”.”[9] 
Quá trình giải quyết nạn đói ở thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thực tiễn cụ thể tác động mạnh mẽ vào chính sách đổi mới của đảng sau này. Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận thức lại kinh tế, coi trọng mặt kinh tế, nhất mặt trận nông nghiệp, và tạo điều kiện cho sản xuất bung ra. Thị trường lưu thông giữa các địa phương, chính sách thua mua hàng hóa, lương thực giữa các địa phương dần được thoáng hơn qua nghị quyết của Đảng, chính sách của nhà nước ở những năm trước đổi mới, đặt một bước quan trọng cho công cuộc đổi mới.

2.4. Tiểu kết.

Từ những nguy cơ nạn đói xảy ra ở Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo thành phố đã tích cực, chủ động đưa ra những ý tưởng “xé rào” và tiến hành hoạt động thu mua lúa gạo ở miền Tây với phương thức mua bằng giá sát thị trường hoặc trao đổi hàng hóa đã giải quyết được nhu câu khan hiếm hàng hóa và những khó khăn của nhân dân. Việc mua bán theo giá thị trường đã giải quyết được nạn thừa gạo, hạn chế được sự phát triển của thị trường tự do, những hành động đầu cơ tích trữ của thương nhân cũng giảm dần.


Trần Hoàng
Trích từ Quá trình giải quyết nguy cơ nạn đói ở thành phố Hồ Chí Minh trước công cuộc đổi mới năm 1986 




[1] Đặng Phong (2009), sđd.
[2] Báo tuổi trẻ (15/06/2008), “Tổ buôn lậu gạo” của bí thư thành ủy, http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoituan/20080615/to-buon-lau-gao-cua-bi-thu-thanh-uy/263324.html. 
[3] Báo tuổi trẻ (06/04/2015),  Xé rào và chạy gạo trong đêm, http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-kysu/20150406/xe-rao-va-chay-gao-trong-dem/730103.html. 
[4] Vietnamnet (18/11/2012), Những quyết định “xé rào” mang tên Võ Văn Kiệt, http://vietnamnet.vn/vn/thoisu/nhung-quyet-dinh-xe-rao-mang-ten-vo-van-kiet-97335.html. 
[5] Báo tuổi trẻ (15/06/2008), “Tổ buôn lậu gạo” của bí thư thành ủy, http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoituan/20080615/to-buon-lau-gao-cua-bi-thu-thanh-uy/263324.html.
[6] Đặng Phong (2009), sđd.
[7] Đặng Phong (2009), sđd.
[8] Báo tuổi trẻ (15/06/2008), “Tổ buôn lậu gạo” của bí thư thành ủy, http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoituan/20080615/to-buon-lau-gao-cua-bi-thu-thanh-uy/263324.html. 
[9] Báo tuổi trẻ (15/06/2008), “Tổ buôn lậu gạo” của bí thư thành ủy, http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoituan/20080615/to-buon-lau-gao-cua-bi-thu-thanh-uy/263324.html. 

Nhận xét