ĐẠI TƯỚNG LÊ TRỌNG TẤN TỪ HẦM DE CASTRIES ĐẾN DINH ĐỘC LẬP

Chân dung cố đại tướng Lê Trọng Tấn

TS. Nguyễn Trung Nghĩa

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng những chiến công vang dội của Quân Đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, vẫn mãi vang vọng trong sử sách. Đó là sự phát triển của một đội quân gồm 34 chiến sĩ đầu tiên, đến 5 Đại đoàn chủ lực với 55.000 chiến sĩ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi 4 Quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 với hơn 200.000 chiến sĩ trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là sự lớn mạnh của một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Sự lớn mạnh đó thể hiện sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, gắn liền với tài thao lược của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và nghệ thuật hành binh, chỉ huy chiến dịch của các tướng lĩnh tài ba mà Đại tướng Lê Trọng Tấn là một trong những người tiêu biểu nhất. Đại tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh của các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Đại tướng Lê Trọng Tấn tên thật là Lê Trọng Tố sinh ngày 10 tháng 01 năm 1914 tại xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội). Trong cuộc đời hơn 40 năm quân ngũ, không chiến trường nào, từ Bắc - Trung - Nam đến đất bạn Lào, Camphuchia không lưu dấu chân ông; các cuộc chiến tranh, từ chống Pháp, chống Mỹ, chống bọn diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ biên giới phía Bắc, ông đều để lại dấu ấn về tài năng thao lược quân sự, với những quyết định lịch sử. Tên tuổi của ông luôn gắn với những chiến thắng trong các trận quyết chiến chiến lược làm chuyển biển cục diện chiến tranh. 

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, dưới sự chỉ huy của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Đại đoàn 312 (Đại đoàn Chiến Thắng) là đơn vị duy nhất không gặp trục trặc trong trận nào, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ từ trận đầu đến trận cuối, dẫn đầu phong trào thi đua trong toàn quân, được nhận cờ thi đua quyết chiến quyết thắng của Bác. 17 giờ 30 ngày 13 tháng 03 năm 1954 Đại đoàn 312 nổ súng tấn công cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch. 18 giờ 30 ngày 07 tháng 05 năm 1954, Đờ cát được đưa về Sở chỉ huy Đại đoàn 312, kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cuối năm 1964, Đại tướng Lê Trọng Tấn được cử vào Nam giữ nhiệm vụ Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam để xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy đánh Mỹ. Với cương vị Phó tư lệnh Miền, ông là người có công lớn trong việc xây dựng Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực đầu tiên của Nam Bộ. Đồng thời, chỉ huy những trận đánh lớn của bộ đội chủ lực Miền. Khi vừa vào miền Nam, Đại tướng Lê Trọng Tấn đã chỉ đạo chiến dịch Bình Giã (tháng 12 năm 1964), sau đó trực tiếp làm tư lệnh chiến dịch Đồng Xoài (tháng 6 năm 1965). Có thể nói: “Cùng với chiến thắng Ba Gia và nhiều nơi khác trong cuộc tiến công xuân-hè năm 1965, chiến thắng Đồng Xoài góp phần rất quan trọng trong việc đánh bại đội quân chủ lực ngụy, làm cho nó không đủ sức làm nòng cốt thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ” , Bình Giã, Đồng Xoài đã cùng quân dân ta trên khắp các chiến trường đã làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy.

Thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã trực tiếp đổ quân vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trong cuộc hai phản công mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của địch, chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng (tháng 11 năm 1965) và chiến dịch tiêu diệt địch tại Suối Ngô (tháng 3 năm 1967) là hai chiến dịch có ý nghĩa quyết định đánh bại hai cuộc phản công này. Nếu như Bàu Bàng - Dầu Tiếng “là lần đầu tiên, Quân Giải phóng đánh và diệt gọn cả một cánh quân lớn của Mỹ, có cả lực lượng xe bọc thép và pháo binh lớn yểm hộ” , thì trận chiến tại Suối Ngô là trận đánh ác liệt nhất trong cuộc hành quân Junction City, góp phần chôn vùi toàn bộ cuộc phản công chiến lược lớn nhất mùa khô 1966 - 1967 của địch. Cả hai chiến dịch này, tướng Ba Long (bí danh của Đại tướng Lê Trọng Tấn lúc này) đều làm tư lệnh. 

Đầu năm 1971, địch mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tiến ra Đường số 9 và Nam Lào, nhằm đánh lên Sê Pôn chặn đường tiếp tế của ta trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Quân ủy Trung ương đã mở chiến dịch Đường 9 - Nam Lào và giao cho Đại tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh. Với sự nhạy cảm đặc biệt của một vị tướng trận, ông đã cùng cùng với Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng sức mạnh tổng hợp, dùng bộ binh, xe tăng kết hợp với pháo binh chọc thủng tuyến phòng ngự của địch, tiến công liên tục khiến kẻ địch từ thế chủ động sang thế bị động. Đến ngày 18 tháng 03 năm 1971 địch phải bỏ Bản Đông tháo chạy; cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch bị thất bại hoàn toàn. Tiếp sau đó, ông là Tư lệnh Chiến dịch Quảng Trị năm 1972, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, đánh dấu thất bại của Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. 

Như vậy, những chiến dịch quân sự lớn của ta đã góp phần cùng nhân dân miền Nam đánh bại ba chiến lược chiến tranh lớn mà Mỹ – Ngụy thực hiện trên chiến trường này. Tất cả các chiến thắng này đều có những dấu ấn hết sức sâu sắc của Đại tướng Lê Trọng Tấn, khi ông là người chỉ đạo hay trực tiếp là Tư lệnh chiến dịch.

Mùa xuân năm 1975, sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trước khi mùa mưa đến. Tháng 03 năm 1975, Đại tướng Lê Trọng Tấn được chỉ định làm Tư lệnh chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ông đã đề ra phương án tác chiến táo bạo, khẩn trương, bất ngờ, làm chủ căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, đánh tan Quân đoàn 1, Quân khu 1 Việt Nam cộng hòa với 10 vạn quân với vũ khí trang bị hiện đại chỉ trong 3 ngày. Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo đã đánh giá thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng: “Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược này tạo tiền đề cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Miền Nam” . Sau chiến thắng này, ông đã đề xuất và được chấp thuận thành lập cánh quân Duyên Hải do ông làm tư lệnh.

Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa...”của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy của ông, cánh quân Duyên Hải đã thực hiện một cuộc hành quân thần tốc, vừa đi vừa đánh địch trong hành tiến, đưa đạo quân gồm 4 vạn người với hàng nghìn xe, pháo các loại, vượt qua chặng đường hàng nghìn cây số, vượt qua 3 quân khu, 14 tỉnh, 18 thị xã, 50 con sông trong vòng 18 ngày đêm. Đánh tan phòng tuyến từ xa của địch tại Phan Rang bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tập kết lực lượng tại hướng Đông và Đông Nam Sài Gòn chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, đưa pháo 130mm vào Nhơn Trạch và thành Tuy Hạ, áp sát Sài Gòn, chuẩn bị tổng công kích. Tại đây, bằng tài trí phán đoán và phân tích chiến lược, ông đã đề nghị Quân ủy cho cánh quân của mình nổ súng trước giờ G 12 tiếng. Mũi đột kích của Quân đoàn 2, cánh quân Duyên Hải, do Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn 304 và Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 đảm nhiệm đã tiến vào dinh Độc Lập đầu tiên, bắt sống Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh và nội các, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Như vậy là cánh quân ở xa nhất khi chuẩn bị chiến dịch, phải vượt qua nhiều phòng tuyến của địch nhất, lại là cánh quân đầu tiên tiến vào hang ổ của địch. 

Hai mươi năm, hai chiến thắng vĩ đại của dân tộc chỉ có một vị tổng chỉ huy quân đội là Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và thật là trùng hợp khi vị tướng cầm cánh quân đầu tiên tiến vào sở chỉ huy của địch cũng chỉ là một người, Đại tướng Lê Trọng Tấn. Trong ngày toàn thắng, vị Tổng tư lệnh đã nhớ đến: “Một khuôn mặt trìu mến, thân quen hiện lên trong tôi: Trung tướng Lê Trọng Tấn”.

Đại tướng Lê Trọng Tấn - Nhà chiến lược quân sự tài ba, một vị tướng đức độ, nhân nghĩa.

Cuộc đời binh nghiệp của ông từ chiến dịch Điện Biên Phủ đến chiến dịch Hồ Chí Minh gắn liền với những chiến dịch có ý nghĩa quyết định làm thay đổi cục diện chiến trường, góp phần kết thúc chiến tranh. Không thể kể hết công trạng quá dài của ông, người ta chỉ có thể ghi nhận điều cốt yếu: ông luôn được tin cậy để giao nhiệm vụ gầy dựng nền móng ban đầu cho những công việc hệ trọng và mới mẻ. Với tư duy và nhãn quan của một chiến lược gia quân sự đại tài, ông đã không ít lần góp phần vào những quyết định mang tính quyết định của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. 

Từ thực tiễn của chiến trường, cùng với những kiến thức quân sự của một vị tướng tài, ông đã nhiều lần được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ nghiên cứu, xây dưng nhiều kế hoạch tác chiến có tính quyết định đối với cuộc kháng chiến của dân tộc. Nếu như trước khi diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông được giao nhiệm vụ Tổ trưởng tổ nghiên cứu cách đánh công kiên, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm, thì cuối năm 1973, ông được giao nhiệm vụ Tổ trưởng Tổ Trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu, xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 năm. Như vậy là trong cả trong hai trận quyết chiến chiến lược có tầm vóc lịch sử ấy, Đại tướng Lê Trọng Tấn, đều góp phần quan trọng giúp cho Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh vạch ra kế hoạch tác chiến, hướng tấn công cũng như huy động lực lượng, phối hợp hiệp đồng các quân binh chủng. Bên cạnh đó, ông đã có những đóng góp hết sức to lớn cả trong thực tiễn chỉ huy đánh địch, lẫn trong nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự của quân đội ta. Từ vai trò Hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân cho đến Viện trưởng Viện Khoa học quân sự, Giám đốc Học viện chính trị cao cấp Bộ Quốc phòng, ông là người thầy xứng đáng cho những sĩ quan thế hệ sau. 

Đại tướng Lê Trọng Tấn không chỉ là người chỉ huy tài ba, mà ông còn là một vị tướng đức độ, nhân nghĩa, cán bộ, chiến sĩ chiến đấu dưới quyền chỉ huy của ông luôn hết lòng tin tưởng, sẵn sàng cùng ông chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong từng trận đánh.Trong chiến đấu có hy sinh, đổ máu đó là điều tất yếu, sau mỗi trận đánh người mà ông nhớ nhất là những chiến sĩ đã hy sinh nơi chiến trận, mãi mãi không trở về. Ông không bao giờ chấp nhận câu nói: “Trận này ta thiệt hại không đáng kể”. Với ông xương máu của chiến sĩ là vô giá và luôn thận trọng tìm ra cách đánh ít tổn thất nhất. 

Đồng chí Lê Trọng Tấn (thứ hai, từ trái sang) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng một số cán bộ trao đổi công việc. (Ảnh tư liệu/An ninh thế giới)

Năm nay vị Đại tướng của chúng ta vừa tròn 100 tuổi, hình ảnh Đại tướng Lê Trọng Tấn sẽ mãi mãi là hình ảnh về một người chỉ huy trí dũng song toàn và giàu lòng nhân ái, tài năng quân sự của ông có vị trí xứng đáng trong lịch sử quân sử Việt Nam. Tên tuổi của ông cùng nhiều tướng lĩnh tài ba khác của đất nước và quân đội ta đồng hành cùng toàn dân trong các cuộc chiến tranh giải phóng bảo vệ tổ quốc. Tên tuổi cùng những võ công vang dội của họ được khắc vào lịch sử quân đội, lịch sử dân tộc và phần thưởng lớn nhất đối với họ là lòng yêu mến, sự kính trọng của mọi cán bộ, chiến sĩ, của người dân khắp mọi miền đất nước./

CHÚ THÍCH:
1. Bộ Quốc Phòng, Viện Lịch sử Quân sự, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), NXB CTQG – Sự Thật, hà Nội, 1997, tập III, tr 381.
2. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại (Tập III: 1965 - 1968), NXB Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr 333.
3. Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr 111.
4. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng, NXB CTQG – Sự Thật, Hà Nội, 2013, tr 336.

Nhận xét