Vương triều nhà Nguyễn
được thiết lập trong điều kiện bối cảnh lịch sử quốc tế và khu vực có những
thay đổi đáng kể. Trong đó, với việc địa hình có chung đường biên giới và có mối
quan hệ ban giao từ lâu và vấn đề ngăn ngừa nguy cơ xâm chiếm, giữ mối quan hệ
hòa hữu với Trung Quốc là một nhiệm vụ quan trọng và xuyên suốt đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước qua của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Trong những năm đầu thế
kỷ XIX, đất nước vừa trải qua những cuộc nội chiến kéo dài làm cho tình hình
kinh tế xã hội rơi vào tình trạng khó khăn, chính quyền nhà nước cũng chỉ vừa mới
thành lập nên việc lựa chọn “thần phục” nhà thanh là một hoạt động ngoại giao hết
sức khôn khéo, mềm dẻo nối lại truyền thống ngoại giao giữa Việt Nam với Trung
Quốc. Gia Long đã tiếp thu cách ứng xử ngoại giao đặc thù của Việt Nam chấp nhận
làm nước chư hầu nhằm xoa dịu và làm
thõa mãn lòng tự ái của một nước lớn tạo ra mối quan hệ hòa hữu giữa hai nước,
vừa đảm bảo được sự độc lập chủ quyền dân tộc, tránh các mối hiểm họa chiến
tranh từ phương Bắc. Vì thế quan hệ ngoại giao với Trung Quốc luôn được nhà
Nguyễn coi trọng.
Về chính trị
Chiến
lược “dụng nhu thắng cương” và
chiến thuật “triệu cống” trong quan hệ với Trung Hoa
chiến thuật “triệu cống” trong quan hệ với Trung Hoa
Khi triều nguyễn được
thiết lập, thì tại Trung Quốc triều đình Mãn Thanh thống trị đã qua thời cực thịnh,
hiện lâm vào tình trạng khủng hoảng với những chính sách cai trị lạc hậu trì trệ
so với thế giới bên ngoài, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn giữ thái độ thần phục
của nước nhỏ đối với nước lớn. Hiểu được tính chất cơ bản ấy, ngay khi chính thức
lên ngôi làm chủ đất nước vua Gia Long đã dạy con cháu mình phải biết chịu nhường
để sang Trung Quốc xin “phong vương”. Do đó, trước yêu cầu lịch sử ngoại giao
mà triều Nguyễn phải đảm bảo thực thi được cái tính truyền thống ấy với nhà
Thanh. Thủ tục bắt đầu từ việc “phong vương” của triều đình nhà Thanh và kết
thúc các bước tiếp theo theo lệ “triệu cống”. Các lễ vật triệu cống thiên về
giá trị tinh thần để tỏ rõ sự tôn quý của nước nhỏ đối với “thiên triều”. thông
thường, lệ xin “phong vương” được tiếp nhận trên lãnh thổ Trung Quốc tại Lưỡng
Quảng, triều đình Huế cử đoàn sứ bộ với các quan chức cấp cao của Việc Nam sang
nơi này cùng với quốc thư, phẩm vật biếu, và ấn sách (nếu có) của triều đại trước.
Khi sang xin phong vương Việt Nam bao giờ cũng báo tin về sự băng hà của vị vua
trước mình.
Tháng 5 năm Nhâm Tuất
(1802), sau khi làm lễ đăng quang vua Gia Long đã cử Hộ bộ thượng thư là Trịnh
Hoài Đức sung làm chánh sứ, Binh bộ Hữu Tham tri là Ngô Nhân Tĩnh, Hình bộ Hữu
Tham tri là Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ, đem quốc thư và phẩm vật đến tỉnh Quảng
Đông xin được cầu phong. Tổng đóc Lữơng Quảng là Giác La Khánh đem việc ấy
trình lên. Vua Gia Khánh nhà Thanh lệnh chó Quảng Đông tiếp đón, lưu Trịnh Hoài
Đức và sứ đoàn tại tỉnh thành và chu cấp cho rất hậu.
Tháng 7 năm Nhâm Tuất
(1802), vua Gia Long gửi thư sang Tổng đốc Lưỡng Quảng nước Thanh hỏi về thể lệ
giao bang đồng thời cử thiêm sự Lại bộ là Lê Chính Lộ, thiêm sự binh bộ là Trần
Minh Nghĩa lên ải Nam Quan. Gia Long muốn tiếp sứ thần nhà Thanh ở cửa ải,để
làm lễ tuyên phong cho để phiền phí đem
việc ấy hỏi Ngô Thì Nhậm VÀ Phan Huy Ích, hộ đều nói việc như thế từ trước chưa
nghe bao giờ nên dự định ấy không thực hiện được.
Tháng 10 năm Nhâm Tuất (1802),
vua Gia Long cử Lê Quang Định làm chánh sứ, Lê Chính Lộ và Nguyễn Gia Cát làm
phó sứ sang xin phong và đổi quốc hiệu là Nam Việt. Khoảng tháng 8 năm Qúy Hợi
1803 đoàn sứ bộ của Lê Quang Định đem quốc thư và phẩm vật (kỳ nam 2 cân, ngà
voi 2 cặp, sừng tê 4 tòa,trầm hương 100 cân, tốc hương 200 cân và trừu, the, vải
đều 200 tấm) đến Yên Kinh xin phong và đổi quốc hiệu là Nam Việt. Đại lược
trong thư viết : “Các đời trước mở mang cỡi viêm bang, mỗi ngày một rộng bao gồm
cả các nước Việt thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền thống nối
hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cỗi Việt, nên khôi phục
hiệu cũ để chính danh tốt”. Vua Gia Khánh nhà Thanh cho rằng chữ Nam Việt giống
chữ Đông Việt, Tây Việt nên không muốn cho…mới dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước
gửi thư lại nói: “khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được
toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nêm tóm cả đất đai mở mang trước sau,
đặt tên cho tốt, đinh lấy chữ Việt đặt ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà
nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi
nam giao mà chịu mệnh mới, tên xung chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với
tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa lại phân biệt hẳn”. Việc xin phong và xin đổi
quốc hiệu được vua Thanh chấp thuận, các nghi lễ thuyên phong sau này sẽ được cử
hành tại Thăng Long. Trong hoạt động ngoại giao với nhà Thanh địa bàn quan trọng
nhất là khu vực thành Thăng Long cũ. Trong 3 đời vua đầu triều Nguyễn, sứ thần
nhà Thanh đến nước ta để thực hiện các nghi lễ tuyên phong, nhà Nguyễn đều chọn
Thăng Long làm nơi tổ chức đón, tiễn và tiến hành các nghi lễ. Trong thời gian
chờ làm các nghi lễ, các doàn sứ thần Trung Quốc sẽ nghỉ tại công quán Gia Thụy.
Việc tiếp đón sứ thần
nhà Thanh được nhà Nguyễn tổ chức long trọng tại công quán Gia Thụy, tại đây bộ
phận phục vụ và tiếp đón sứ thần gồm 8 viên biệt lí, 6 viên thù ứng, 4 viên thư
kí, 2 viên đồng cán, 1 viên quản thủ và 500 biền binh. Việc tiếp đón sứ thần được vua quan nhà Nguyễn
chú trọng và tổ chức một cách bài bản. Về cơ bản, việc giao bang với Trung Quốc
được các nhà vua Nguyễn rất coi trọng và luôn ở vị thế của một nước nhỏ thờ nước
lớn. Ngoài việc sai sứ đem lễ phẩm đi tiến cống (4 năm 1 lần hợp lễ cống qua
các năm) thì mỗi khi có việc chúc mừng, tạ ân hoặc xin phong thì nhà Nguyễn đều
cử các sứ đem lễ vật sang Yên Kinh. Theo điển lễ nhà Nguyễn thì dưới triều vua
Gia Long và đầu triều Minh Mệnh, thông thường các đoàn sứ thần gồm 1 viên chánh
sứ, 2 viên phó sứ, 8 người hành nhân,15 người tùy tùng. Từ năm Minh Mệnh thứ 6
(1825) trở về sau, số người trong sứ bộ được quy định là 20 người.
Trong lịch sử giao bang
giữa nhà Nguyễn với nhà Thanh, các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc sau khi rời
kinh đô Huế ra Bắc đều phải có một thời giai dừng lại ở Hà Nội để kiểm tra, sắp
xếp các lễ vật tiến cống hay mừng lễ. Về phẩm vật các đoàn sứ bộ mang đi, nhà
Nguyễn quy định rõ rệt: Lệ sang sứ nhà Thanh, cứ 4 năm sai sứ đi một lần. Nếu gặp
các lễ chức mừng, xin phong, tạ ơn hay dâng hương mà có sai sứ đi, đều phải tư
trước cho Bộ hộ và phủ nội vụ theo lệ làm mọi việc và giao cho Hà Nội tìm sắm
các lễ vật. Thông thường lễ vật gồm:
- Lệ phẩm lệ cống, 1 năm
1 lần: 2 ngà voi, 2 cỗ tê giác, 300 lạng trầm hương, 600 lạng tốc hương, cau và
hạt sa nhân mỗi thứ 45 cân, trừu, lụa nõn, lụa mộc, vải mỗi thứ 100 tấm.
- Lễ chức mừng: 2 đôi
ngà voi, 4 cỗ tê giác, trừu, lụa nõn, lụa mộc,vải mỗi thứ 100 tấm.
- Lễ xin phong: 2 đôi
ngà voi, 4 cỗ tê giác, trầm hương 50 cân, tốc hương 100 cân, trừu, lụa nõn, lụa
mộc, vải mỗi thứ 100 tấm.
- Lễ tạ ơn về tuyên
phong và dụ tế, mỗi lễ: vàng 10 tuổi hạng đỉnh 10 lạng: 20 đĩnh bạc hạng đĩnh
10 lạng: 100 đĩnh; 100 cân ngà voi, 2 cỗ tê giác hoa, 100 cân nhục quế, lụa
nõn, lụa mộc đều 100 tấm…
*Thời Gia Long
(1802-1819)
Nhà Nguyễn đã cử 8 đoàn
sứ bộ sang Trung Quốc, mỗi đoàn sứ bộ có 3 viên chánh phó sứ, 9 viên hành nhân
và 15 viên tùy tùng.
+ Năm 1802: gồm 2 đoàn
sứ bộ (1.đem sách ấn của vua Thanh phong cho Tây Sơn trước kia nộp lại cho Lưỡng
Quảng; 2. qua xin phong và đổi quốc hiệu.)
+ Năm 1804: sang tạ ơn việc tuyên phong và nộp cống
+ Năm 1809: gồm 2 sứ
đoàn (1. nhiệm vụ sang cống nạp; 2. sang
mừng thọ vua Gia Khánh)
+ Năm 1813: sang cống
phẩm.
+ Năm 1817: sang nộp cống.
+ Năm 1819: sang mừng
thọ vua Gia Khánh.
*Thời Minh Mệnh
(1820-1840)
Nhà Nguyễn cử 7 đoàn sứ
thần sang nhà Thanh
+ Năm 1820: sang cáo
phó (vua Gia Long) và xin phong.
+ Năm 1825: cử 2 đoàn sứ
bộ (1.nộp cống; 2.tạ ơn việc tuyên phong)
+ Năm 1829: sang nộp cống
+ Năm 1831: sang mừng thọ
vua Đạo Quang
+ Năm 1833: sang nộp cống
phẩm
+ Năm 1837: sang nộp cống
phẩm
*Thời Thiệu Trị
(1841-1847)
Cử 2 đoàn sứ bộ
+ Năm 1841: sang cáo
phó (vua Minh Mệnh) và xin phong.
+ Năm 1845: sang tạ ơn
việc tuyên phong
*Mười năm đầu thời Tự Đức
(1848-1858)
+ Năm 1848: sang xin
phong cho vua Tự Đức
+ Năm 1849: sang nộp cống
phẩm
+ Năm 1851: sang chúc mừng
vua Hàm Phong lên ngôi
+ Năm 1852: cử 2 đoàn sứ
bộ (1. Đáp tạ việc tuyên phong; 2.nộp cống phẩm)
+ Năm 1857: sang nộp cống
phẩm.
Sách phong và triều cống
là hình thức ngoại giao quan trọng trong mối quan hệ giữa triều Nguyễn và nhà
Thanh, ngoại việc duy trì mối quan hệ hòa bình hợp tác giữa hai nước thì trong
những chuyến đi của các sứ bộ sang sát phong hay triều cống còn là những cơ hội
để thăm do tình hình chính trị, xã hội ở nước sở tại báo về cho chính quốc.
Cũng như các triều đại
trước, triều Nguyễn nhận thức biến giới trên bộ nhất là phía Bắc và phía Nam là
“phên dậu” và “cổ họng”. là nơi “quan yếu” của đất nước, bảo vệ vùng biến giới
là nhiệm vụ mang tính sống còn của đất nước. Đặc biệt là vũng biên giới phía Bắc
trước một đế quốc hùng mạnh và hiếu chiến như Trung Hoa.
Tình hình biên giới giữa
hai quốc gia cũng khá ổn định cho đến năm 1831 một đội quân hơn 600 người vượt
biên giới đánh sang lãnh thổ Việt Nam
thuộc trấn Hưng Hóa đòi nhà Nguyễn phải rút lui. Vua Minh Mạng đã ra lệnh
huy động 1.000 quân và 10 thớt voi chiến
đánh trả đuổi quân Thanh về nước.Trong những năm 1836, 1849, 1851, 1852 quân
Thanh nhiều lần vượt biên sang đánh phá vùng biên giới nước ta, triều Nguyễn đã
ra lệnh cho quan quân địa phương tổ chức lực lượng canh phòng và kiên quyết
đánh trả, đuổi người nước Thanh ra khỏi lãnh thổ, “giữ đất, yên dân, đánh chặn
giặc ngoài, bảo toàn lãnh thổ”. Trong hoạt động ngoại giao với Trung Quốc, mặc
dù triều Nguyễn tỏ ra thuần phục nhưng cũng có lúc tranh biện, kiên quyết giữ đất,
giữ dân “không để họ lấn dần… một thước núi, một tất sông” nơi biên giới.
Về kinh tế
Việc xác lập quan hệ
ngoại giao với nhà Thanh đang bị gián đoạn nhằm giúp nhà Nguyễn giải quyết các
vấn đề khẩn cấp lúc bấy giờ là chính trị, kinh tế…Và trong bối cảnh quốc tế
lúc bấy giờ đã có những biến đổi, các thế lực phương Tây lăm le dòm ngó các nước
phương Đông trong đó có cả Việt Nam và Trung Quốc. Thì việc giữ một môi trường
hòa bình để hai bên cùng có lợi là rất quan trọng
Bên cạnh, những chính
sách ngoại giao của triều Nguyễn trên lĩnh vực chính trị, thì triều Nguyễn có
có mối quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế nhất là trong hoạt
động ngoại thương. Ở nữa đầu thế kỷ XIX, các thương nhân Trung Quốc đóng một
vai trò rất quan trọng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ
XVII khi các lái buôn phương Tây đã thất bại trong công cuộc buốn bán và quyết
định rời bỏ xứ sở này thì đại vị của họ càng nổi rõ. Không kể những thế hệ người
Hoa đã du nhập vào nước ta từ các thế kỉ trước, chỉ riêng từ nửa đầu thế kỉ
XIX, lợi dụng thái độ nhu nhược của nhà nhà Nguyễn đối với triều đình Mãn
Thanh, số lượng người Hoa đến nước ta làm ăn buôn bán cũng tăng lên.
Số lượng thương nhân Trung
Quốc thường xuyên đi lại buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng rất đông. Do
có mối quan hệ bang giao theo hướng tích cực với nhà Thanh hơn là với người Tây
phương nên dưới thời Minh Mạng hoạt động buôn bán giữa Trung Quốc và nước ta vẫn
diễn ra bình thường, ngược lại dưới thời Minh Mạng hoạt động buôn bán của người
Tây phương ở nước ta bị hạn chế chỉ được thông thương ở duy nhất cảng biển Đà Nẵng.
Hiện tượng các thương nhân Việt Nam vẫn qua lại mua bán khá thường xuyên tại
Trung Quốc đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài ghi nhận, chỉ tính riêng trong
năm 1822 theo tài liệu của Crawfurd có hơn 30 thuyền buôn từ Sài Gòn đi Trung
Quốc với trọng tải 6.500 tấn, từ Hội An đi 16 chiếc trọng tải 3.000 tấn, từ Huế đi 12 chiếc trọng
tải 2.500 tấn, từ các thương cảng Bắc thành 38 chiếc trọng tải 5.000 tấn, tổng
cộng trọng tải 17.000 tấn. Kề từ năm 1837 trở đi, vì các lái buôn nhà Thanh mua
sa ở Hà Nội và các tỉnh đem về nhuộm lại, rồi đóng dấu giả làm hàng Trung Quốc,
chính phủ cũng cấm xuất cảng tơ cân, không cử tơ sống hay chín và các thứ hàng
dệt như tĩnh, lụa, sa, trừu. Hàng năm, các thuyền buôn Trung- Hoa thường đi
lại giữa Việt Nam và Tân Gia Ba, và đem tới Việt Nam các loại vải bông và vải dạ,
đinh hương, nhục đậu khấu, thuốc súng và khí giới. Các điều cấm được chính phủ
Việt Nam nhắc lại nhiều lần về sự buôn lậu gạo và thuốc phiện chứng tỏ rằng
thương nhân Trung Quốc thường lén chở gạo Viêt Nam tới Tân Gia Ba, và lén đem
thuốc phiện vào bán tại Viêt Nam. Năm 1844 vua Thiệu Trị đã phái chiếc tàu đem
thổ sản Việt Nam đến các vùng lân cận trong khu vực để buôn bán và trong đó có
vùng Quảng Châu của Trung Quốc, các vùng khác là Giang Lưu Ba và Tân Gia Ba.
Ngay từ khi chúa Nguyễn
lấy xứ Hội An tỉnh Quảng Nam làm hải cảng để buôn bán với nước ngoài thì ở vùng
này đã có sự xuất hiện của các thương nhân đến từ Trung Hoa. Họ đến đây cư trú
và kinh doanh tại đây, dưới sự quản chế của các viên quan thuộc Ty Tào. Tuy
nhiên, nhà Nguyễn cũng kiểm soát chặt chẽ với các tàu buôn Trung Hoa vì sợ họ
mang đi những hàng cấm, hoặc vàng bạc. Các thương gia Hoa kiều đóng vai trò
quan trọng bởi Trung Hoa là khách hàng chính và sự mậu dịch giữa Trung Hoa và
Việt Nam ngày càng phát triển. Đến nỗi năm 1856 nhà nước phải ra lệnh hạn chế
chỉ cho sô thuyền của các thương nhân Trung Quốc được đậu ở các bến cảng tối đa
là 12 chiếc. Bảng thuế tân quan của triều Nguyễn được ghi rõ mức thuế cho các
thuyền ở từng khu vực Trung Quốc đến buôn bán ở Việt Nam, có lúc thuyền còn chở
đền vài trăm người, đó là chưa kể lượng khách thương qua lại theo đường biên giới
mà nhà nước không thể kiểm soát được. Ngoài việc lãnh trưng trong ngành khai mỏ
và các loại thuế khóa, hầu hết người Hoa còn lại làm nghề buôn bán. Họ buôn bán
từ các mặt hàng chiến lược như gạo, gỗ, kim loại, đường vải cho đến các mặt hàng
hóa thuốc men. Các mặt hàng đặc sản, tài nguyên của Việt Nam được các thương
lái Trung Quốc thu mua đem về nước hoặc bán sang các nước khác kiếm lời. Hàng
hóa nhập khẩu từ Trung Quốc rất đa dạng và phong phú, nó phục vụ cho nhu cầu của
quảng đại quần chúng bình dân và cả tầng lớp quý tộc. Triều đình nhà Nguyễn
cũng có danh mục cấm xuất khẩu nhiều loại mặt hàng như gạo, sau đó là vàng, bạc
và tiền đồng. Trầm hương và kì nam cũng là đặc sản quý hiếm được nhà nước cấm
mua bán, thường được dùng làm đồ cống và đồ biếu trong quan hệ ngoại giao.
Như vậy, trong suốt thời gian tồn tại với tư cách là 1 quốc gia độc lập, có chủ quyền - triều Nguyễn đã thực hiện chính sách “Hòa với phương Bắc”.
Đây là chính sách đối ngoại xuất phát vì mục tiêu hòa bình, an ninh khu vực.
Tuy nhiên, trong các hoạt động ngoại giao đối với Trung Quốc, triều Nguyễn cũng
có những hạn chế đáng kể: Sự xa hoa, tốn kém trong đón tiếp, rước sứ nhà Thanh.
Sự “thần phục” Trung Quốc dù chỉ là trên danh nghĩa, danh xưng nhưng vua Nguyễn
vẫn phải khấn đầu, quỳ lạy trong lễ sách phong của sứ Trung Quốc; phần lớn các
hoạt động ngoại giao liên quan đến Trung Quốc, triều Nguyễn đều tổ chức long trọng
với nhiều chi tiết, nghi lễ phức tạp, kéo dài không cần thiết.
Trong đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ
này, chúng ta vẫn nhận thấy triều
Nguyễn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những “dấu vết Trung Hoa”,đặc biệt là trong quan hệ với các
nước phương Tây (đóng cửa giao thương, coi thường “Tây dương, Bạch quỷ”…).
Đỗ Xuân Giang (Sưu tầm)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Chủ biên: GS. Trương Hữu
Quýnh - GS. Đinh Xuân Lâm - PGS. Lê Mậu Hãn, Đại cương Lịch sử Việt
Nam toàn tập, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2.
Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TS. Trần Thị Mai
(2008), Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
3.
Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, PGS. TS. Hoàng Khắc Nam
(9/2015), Nhập môn Quan hệ quốc tế - Tập bài đọc (Lưu hành nội bộ),
Thành phố Hồ Chí Minh.
4.
Đào Duy Anh (2016), Lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5.
Giáo sư Nguyễn Phan Quang,
Tiến sĩ Võ Xuân Đàn (2000), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884,
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
6.
GS. Lương Ninh (Chủ biên -
2000) - PGS. Nguyễn Cảnh Minh - PGS. Nguyễn Ngọc Cơ - PGS. Trần Bá Đệ - PGS. Trịnh
Vương Hồng - PGS. Chương Thâu, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7.
Hồ Bạch Thảo (2017), Việt
sử: Tư liệu với lời bàn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
8.
Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Khoa Nhà nước - Pháp luật, TS. Nguyễn Vũ Tiến (2007), Lịch sử
chính quyền Nhà nước Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9.
Huyền Quang - Xuân Khôi - Đạt
Chí (2015), Việt Hoa bang giao sử - Từ thời thượng cổ đến thời đại cận
kim, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
10. Lê Nguyễn (2015), Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử,
Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội.
11. Lê Nguyễn (2018), Xã hội Việt Nam qua bút ký của người nước
ngoài, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
12. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa
thế kỷ XX, Nhà xuất bản Thế giới - Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam,
Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Châu - Nguyễn Tuấn Chung (1994), Ông cha ta bảo
vệ biên giới từ thời Hùng Vương đến nhà Nguyễn, Nhà xuất bản Công an Nhân
dân, Hà Nội.
14. Nguyễn Khắc Thuần (2016), Đại cương Lịch sử cổ - trung đại
Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
15. Nguyễn Khắc Thuần (2016), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ
khởi thủy đến thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
16. Nguyễn Phan Quang (2002), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 -
1884), Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên - 2012), Tiến trình Lịch sử Việt
Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
18. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội.
19. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận
mới, Nhà xuất bản Sư phạm, Hà Nội.
20. Nhiều tác giả (2016), Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta,
Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
21. Phạm Hoàng Quân (2018), Những mảnh sử rời: Nghiên cứu - Tiểu
luận, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
22. Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Quốc triều chính biên
toát yếu tập 1, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
23. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (2007), Các triều đại Việt Nam,
Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
24. Tiến sĩ Sử học Huỳnh Công Bá (2011), Lịch sử Việt Nam cổ
trung đại, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
25. Tôn Thất Thọ (2018), Theo dòng triều Nguyễn, Nhà xuất
bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
26. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và
các nước phương Tây dưới triều Nguyễn (1802 - 1858), Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
27. Trần Trọng Kim (2011), Việt Nam Sử lược, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Sử học
(2002), Việt Nam - những sự kiện lịch sử (Từ khởi thủy đến 1858),
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
29. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên - 2008) - Phan Đại Doãn - Nguyễn Cảnh
Minh, Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
30. TS. Nguyễn Thị Kiều Trang (2016), Về quan hệ sách phong,
triều cống Minh - Đại Việt (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội.
31. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam tập
I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Trương Thị Yến
(Chủ biên - 2013), Lịch sử Việt Nam tập 5: Từ năm 1802 đến năm 1858,
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Võ Kim Cương
(Chủ biên - 2013), Lịch sử Việt Nam tập 6: Từ năm 1858 đến năm
1896, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
34. Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh - Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Những vấn đề văn hóa - xã hội thời
Nguyễn (Kỷ yếu Hội thảo khoa học lần thứ hai về thời Nguyễn), Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Yoshiharu Stuboi (Nguyễn Đình Đầu dịch - 2017), Nước
Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885, Nhà xuất bản Tri
thức - Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét