ĐÓNG GÓP CỦA HỢP TÁC XÃ ĐOÀN XÁ VÀ HUYỆN UỶ ĐỒ SƠN (HẢI PHÒNG) TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VỀ LĨNH VỰC KINH TẾ
Ảnh minh họa
Trong giai đoạn trước Đổi
mới (1976 - 1985), ở nhiều địa phương trong cả nước đã xuất hiện những cá nhân,
tập thể, tổ chức điển hình trong việc tạo ra bước đột phá trong phát triển kinh
tế nông nghiệp chuyển từ hình thức tập thể hoá nông nghiệp sang hình thức khoán
sản phẩm. Hải Phòng cũng là một trong những địa phương như vậy, ngay từ năm
1976 đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tại hợp tác xã Đoàn Xá và huyện uỷ Đồ
Sơn (Hải Phòng) đã xuất hiện hình thức khoán sản phẩm (thời kỳ đó gọi là khoán
chui). Trong quá trình thực hiện hình thức này, hợp tác xã cũng như huyện uỷ đã
đạt được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, chính việc
làm này đã đi ngược với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách phát
triển kinh tế nông nghiệp qua văn kiện Đại hội lần thứ IV (12/1976) cũng như việc
áp dụng mô hình hợp tác xã với hình thức tập thể hoá nông nghiệp từ Liên Xô.
Trong phạm vi bài viết
này, nhóm tập trung phân tích và đánh giá những đóng góp mà hợp tác xã Đoàn Xá
và huyện uỷ Đồ Sơn đã thực hiện trong quá trình thực hiện hình thức khoán sản
phẩm nông nghiệp trong thời kỳ trước Đổi mới.
1.
Giới thiệu địa phương
1.1.
Hải Phòng
Hải Phòng được biết đến
với tên Đất Cảng, Thành phố Cảng, Thành phố hoa phượng đỏ được thành lập năm
1888, là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn nhất
phía Bắc Việt Nam đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, khoa học,
giáo dục của vùng Duyên hải Bắc Bộ, là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam, là thành
phố lớn thứ 2 miền Bắc sau Hà Nội và là một trong 5 thành phố trực thuộc trung
ương, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, cùng với Đà Nẵng và Cần Thơ. Hải
Phòng còn giữ vị trí tiền trạm của miền Bắc, nơi đặt trụ sở của bộ tư lệnh quân
khu 3 và bộ tư lệnh vùng 1 hải quân.
1.2.
Xã Đoàn Xá và huyện uỷ Đồ Sơn
1.2.1.
Xã Đoàn Xá
Đoàn Xá nằm phía Đông
Nam của huyện Kiến Thuỵ. Trong kháng chiến Mông- Nguyên (1288) dân chúng vùng
Đoàn Xá tích cực cùng quân dân nhà Trần đánh bại thuyền chiến của Ô Mã Nhi.
Đầu năm 1945, dưới sự
lãnh đạo của Việt Minh, nhân dân tịch thu và phân phát hơn 60 tấn thóc của địa
chủ Hoàng Thị Lan chia cho dân nghèo. Đây là cuộc biểu dương lực lượng của nhân
dân huyện Kiến Thuỵ những ngày tiền khởi nghĩa.
Kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp. Đoàn Xá đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá- hiện đại hoá, lấy phát triển chăn nuôi và nuôi trồng, đánh bắt thuỷ
sản làm động lực tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.
Huyện uỷ Đồ Sơn
Thị xã Đồ Sơn thành lập
ngày 14/3/1963 trên cơ sở hợp nhất thị xã Đồ Sơn cũ và xã Hợp Đức (huyện Kiến
Thuỵ). Đồ Sơn được chính thức lên quận năm 2007.
Du lịch và dịch vụ là 2
thế mạnh của quận. Đồ Sơn cũng vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên ở Việt
Nam- đảo Hoa Phượng.
2.
Bối cảnh trước khoán
2.1.
Bối cảnh đất nước trước khi Hải Phòng khoán
Sau khi giải phóng đất
nước, Đảng ta áp dụng mô hình kinh tế tập thể hóa trong nông nghiệp. Hình thức
sản xuất khoán đầu tiên là khoán việc nhưng sau một thời gian thực hiện khoán
việc đã không mang lại hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến tình trạng
khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Khoán việc còn dẫn
đến hiện tượng “cha chung không ai khóc” hay tình trạng “đong công phóng điểm”.
Trước tình hình khó khăn đó một số địa phương chuyển sang hình thức phóng hộ.
Tiêu biểu nhất là tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã thực hiện khoán hộ và đạt được những
thành tựu nhất định, nâng cao năng xuất trong nông nghiệp, khuyến khích nông
dân sản xuất vào năm 1963. Tuy khoán hộ mang lại hiệu quả trong thực tế nhưng
Trung ương Đảng coi mô hình này là buông lỏng quản lí, tư hữu hóa tư liệu sản
xuất trái với đường lối hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng, phá vỡ nguyên tắc quản
lí tư bản chủ nghĩa, phục hồi kinh tế cá thể nên không cho triển khai và mở rộng
mô hình khoán hộ mà vẫn chủ trương thực hiện mô hình khoán việc trên khắp cả nước
làm cho tình trạng nông nghiệp cả nước kém phát triển, trì trệ không đáp ứng được
nhu cầu thiết yếu của xã hội làm cho mô hình kinh tế nông nghiệp nước ta mang
tính chất tự cung tự cấp. Thực tế nền kinh tế nước ta từ năm 1977 đã rơi vào khủng
hoảng, các cuộc cải tạo kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp không những
không giúp cải thiện được tình hình mà còn làm cho sự thiếu hụt ngày càng
nghiêm trọng. Năm 1980 sản lượng lúa chỉ đạt 11,64 triệu tấn tức còn thụt lùi
hơn năm 1976, khả năng bao cấp của nhà nước còn cạn kiệt thì mô hình kinh tế
hơp tác xã nông nghiệp còn lộ rõ tính giả tạo và thiếu sức sống của nó. Ở nhiều
địa phương một số lớn hợp tác xã không những không thực hiện nổi nghĩa vụ lương
thựcvới nhà nước mà hàng năm còn phải xin nhà nước cấp lương thực cho nông dân.
2.2.
Bối cảnh Hải Phòng trước khoán
Riêng về Hải Phòng tình
hình dân đói và sa sút của nền kinh tế tập thể là phổ biến. Cứ đến "tháng
3 ngày 8", Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo lại phải cử cán bộ xuống các xã để
cứu đói cho chính những người trồng lúa, ở chính những vùng trồng lúa! Ông còn
luôn luôn được nghe báo cáo về hiện tượng lúa chín rụng nhưng nông dân không chịu
thu hoạch. Ông phải chỉ thị cho các cơ quan trong thành phố huy động bộ đội,
cán bộ, công nhân viên chức và học sinh xuống nông thôn gặt giúp nông dân! Một
lần, xe của lãnh đạo tỉnh vừa ra khỏi ngoại thành, tới huyện Thủy Nguyên, bỗng
có hai mẹ con một người làm thủ công nghiệp lăn ra đường chặn nước mũi xe kêu cứu.
Dừng xe xuống hỏi cơ sự thì được biết rằng: Đã hai tháng nay không có gạo bán
cho gia đình họ. Lãnh đạo tỉnh thẩm tra rồi ra lệnh cho Văn phòng Ủy ban huyện
giải quyết cấp bách. Một lần xuống huyện An Thụy, Chủ tịch thành phố ghé vào
thăm một gia đình bên đường, thầy có ba cháu nhỏ đang đói lả nằm trên giường.
Ông hỏi: "Bố mẹ các cháu đi đâu?" Các cháu trả lời: "Bố mẹ chúng
cháu ra bãi biển bắt tôm bắt cá về bán lấy tiền đong gạo”. Hỏi lãnh đạo và Chủ
nhiệm hợp tác xã, họ báo cáo: "Xã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào
cũng không cày cấy hết, bỏ hoang để cỏ mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy
vì thu nhập thấp. Lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, cứ bỏ ruộng, ra bãi biển
kiếm sống..." Xót xa quá, lãnh đạo tỉnh hỏi tiếp: "Để các cháu đói thế
này là tại ai?" Các cán bộ cơ sở sợ tái mặt, ấp úng trả lời: "Do thiếu
lao động, do nông dân không tích cực lao động..." Chủ tịch thành phố nói
thẳng: "Là tại chúng tôi, tại lãnh đạo thành phố!". Ông cho lái xe
quay về ngay nhà mình ở thành phố, lấy mấy cân gạo để cứu đói ngay cho các cháu
đã, rồi mọi việc tính sau. Đó là những câu chuyện trong thực tế cho thấy tất cả
các huyện ở Hải phòng điều lâm vào tình trạng khó khăn. Điều quan trọng nhất là
cần thay đổi cơ chế không phù hợp để đáp ứng nhu cầu cấp bách lúc này là giải
quyết nạn đói.
3.
Quá trình thực hiện khoán
3.1.
Cơ sở lý luận
3.1.1. Đảng Cộng sản Việt
Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lấy quan điểm của K.Marx và những nhà kinh điển Marxist về sự vận động, phát
triển hợp quy luật của xã hội làm nền tảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đó là:
“Xã hội mà loài người
hướng tới xây dựng là xã hội cộng sản, xã hội này được xây dựng trên cơ sở của
nền sản xuất phát triển cao, của cải làm ra ngày càng dồi dào. Nguyên tắc lao động
và phân phối sản phẩm xã hội trong giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) là “làm
theo năng lực, hưởng theo lao động” sẽ chuyển dần thành “làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu” khi xã hội đạt đến giai đoạn phát triển cao (chủ nghĩa cộng sản).
Trong nền sản xuất này,
mọi tư liệu sản xuất xã hội sẽ được biến thành sở hữu toàn dân. Chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ bị xoá bỏ. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện
quyền tự do, dân chủ cho mọi người lao động”.
Sau năm 1975, trong
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn áp dụng mô hình hợp
tác xã với hình thức tập thể hoá nông nghiệp của thời chiến mà không có sự điều
chỉnh phù hợp với tình hình đất nước sau chiến tranh là cần tiến hành một chính
sách mới trong phát triển kinh tế nói chung và trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp
nói riêng.
Đảng Cộng sản Việt Nam
đã học tập Chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. (Trong nông nghiệp, Nhà nước thay thế chế độ trưng thu lương thực
thừa bằng thu thuế lương thực. Thuế lương thực nộp bằng hiện vật. Sau khi nộp đủ
thuế đã quy định từ trước mùa gieo hạt, nông dân toàn quyền sử dụng số lương thực
dư thừa và được tự do bán ra thị trường).
Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV (12/1976), Đảng đã nêu rõ đường lối xây dựng kinh tế xã hội
chủ nghĩa là:
“Đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.
Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công -
nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương,
kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới.
Cuối tháng 6 đầu tháng
7 năm 1977, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về
phát triển nông nghiệp. Hội nghị quyết định tập trung cao độ lực lượng cả nước
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp với ba mục tiêu chính là đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội và có lương thực dự trữ; cung ứng
nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng
xuất khẩu.
3.1.2. Hợp tác xã Đoàn
Xá và huyện uỷ Đồ Sơn (Hải Phòng)
Năm 1976 có hai văn bản
quan trọng về nông nghiệp là: Thông tri số 335 của Ban Bí thư (07/07/1976) và
Nghị quyết 68 của Hội đồng Chính phủ về việc mở rộng hợp tác xã từ quy mô thôn
lên quy mô toàn xã.
Tháng 5/1980, Huyện ủy
Đồ Sơn ra Nghị quyết số 05- NQ/HU về cái gọi là "Thu chiêm, làm mùa"
mà nội dung chính là cho phép triển khai khoán sản phẩm trên 50% diện tích đất
nông nghiệp toàn huyện.
3.2.
Cơ sở thực tiễn
Năm 1966 xã Đoàn Xá còn
lại hai hợp tác xã là Tiến Lập và Đoàn Xá. Do diện tích canh tác ít lại xấu làm
cho năng xuất kém cùng với cơ chế tính công điểm làm cho nông dân chán nản. Đất
chật người đông nhưng không năm nào tận dụng hết ruộng đất, diện tích đất bị bỏ
hoang rất nhiều. Trước hợp tác xã Đoàn Xá hợp tác xã Tiến Lập đã thực hiện
khoán và đạt được hiệu quả rõ rệt, trong cơ chế làm ăn tập thể mỗi năm năng xuất
chỉ đạt 60-70 kg/sào nhưng sau khi khoán đã đạt được 1,4-1,5 tạ. Nhưng thực hiện
chỉ được hai năm thì huyện biết chuyện, cấp trên coi khoán là sai với đường lối
của Đảng nên sáng kiến ở Tiến Lập không được thực hiện. Đến năm 1976 mùa đông
giá rét thất thường, thời tiết vừa khô hanh vừa buốt giá, mạ chết hàng loạt mất
mùa là điều chắc chắn nếu không có biện pháp cấp bách và quyết liệt. Ngày
20-6-1976 cán bộ Đoàn Xá đã hợp nhất hai hợp tác xã Tiến Lập và Đoàn Xá thành hợp
tác xã Đoàn Xá. Tuy đã có sự can thiệp của chính quyền vào sản xuất nhưng vụ
mùa Đông Xuân năm đó vẫn có hơn 500 mẫu ruộng bỏ hoang, hơn 300 mẫu là cấy mạ
sân, đó còn lại được gieo thẳng có cấy nhưng không có ăn. Mỗi đầu người trong hợp
tác xã chỉ còn 1 kg gạo để ăn trong nửa năm. Trước tình hình này, hợp tác xã đi
đến quyết định khoán cho nông dân sản xuất vì chỉ có cách đó mới giúp giải quyết
được nạn đói trước mắt, mặt dù lúc đầu có nhiều xu hướng khác nhau có đảng viên
đồng ý, không đồng ý hoặc trung gian bỏ mặc hợp tác xã. Đến ngày 10-6-1977, ban
thường vụ Đảng ủy đã họp phiên họp bất thường ra nghị quyết miệng cho khoán sản
phẩm.Vì chủ trương này không được cấp trên đồng ý nên Đảng Bộ hơp tác xã Đoàn
Xá phải đề ra một số biện pháp để giữ bí mật. Bước đầu thực hiện Hợp tác xã chọn
160 mẫu ruộng đẹp nhất cho 2.000 xã viên. Ngày 14-6-1977 cả xã Đoàn Xá âm thầm
dắt nhau ra chia đất, cắm cọc, nhận đất và giao khoán. Kết quả đầu tiên đạt được
vô cùng khả quan, vụ mùa Đông Xuân năm 1977, xã Đoàn Xá đã đạt sản lượng gấp 6
lần mức bình thường, gấp 36 lần vụ Đông Xuân trước đó. Nông dân mừng rỡ, làng
xóm nhộn nhịp.
Sau thắng lợi của vụ
Đông Xuân năm đó cán bộ huyện đã phát hiện ra hợp tác xã Đoàn Xá thực hiện khóa
chui và xuống kiểm tra. Khác với vụ Tiến Lập trước đó quan điểm của xã Đoàn Xá
là không dấu giếm và cũng không ngồi yên chịu trận nữa mà phải kiên quyết thuyết
phục. Đảng ủy trình bày rõ mọi việc với đoàn kiểm tra và nhân dịp này cũng giới
thiệu những thành tích mà khoán đã mang lại. Cán bộ trong đoàn không ai có thể
phê bình được vì thấy mọi việc điều được hoàn thành và đạt chỉ tiêu không còn
hiện tượng trì trệ như trước nữa. Sau đợt kiểm tra này đoàn kiểm tra đưa ra kết
luận đây chỉ là sự tự phát của quần chúng nhân dân nhưng Đảng bộ cũng có tránh nhiệm
vì không thực hiện tốt công tác kiểm tra nên phải kiểm điểm và sữa sai. Điều đó
cũng làm cho Đảng viên hợp tác xã lo sợ nhưng vẫn kiên quyết tiếp tục thực hiện
khoán. Cách tốt nhất để thuyết phục cấp trên bằng cách chứng minh tính ưu việt
và hợp tình hợp lí của mô hình khoán. Lúc
này cây dựng công trình thủy lợi Bát Trang. Hợp tác xã Đoàn Xá “đóng góp” hai
con tàu lớn, cắm cờ đỏ rực với hàng trăm trai đinh, gái đảm, đem theo cơm gạo,
cá, mắm, dụng cụ, phương tiện đến góp sức. Cả huyện phải trầm trồ. Điều đó giúp
cho hợp tác xã Đoàn Xá chứng minh thêm được cái đúng, cái hay của mình. Thành
tích là không thể phủ nhận được nhưng làm sai chủ trương đường lối là không thể
bỏ qua. Tháng 9 năm 1978, Đoàn Xá tổ chức Đại hội Đảng bộ. Chủ nhiệm hợp tác xã
"tổng tư lệnh" khoán ruộng Phạm Hồng Thưởng trúng Bí thư Đảng ủy với
số phiếu gần tuyệt đối. Lòng dân là như thế. Nhận chức được vài tháng ông Thưởng
đã bị gọi lên huyện kiểm điểm vì làm trái chủ trương của Đảng. Trước khi di ông
ra chỉ thị toàn bộ công việc khoán ở nhà vẫn tiếp tục thực hiện không lùi bước.
Ngày 2-3-1979,toàn bộ Đảng viên trong huyện An Thụy được đổi thẻ Đảng mới. Riêng
Đoàn Xá không được. Bí thư Đảng ủy động viên mọi người bằng một câu, mà sau đó
bị quy kết vào cái tội tày đình là "mất tính Đảng": "Bây giờ cái
cấp bách là cuộc sống của dân chứ chưa phải là thẻ Đảng. Có thẻ Đảng mà dân đói
thì mang thẻ Đảng càng thêm xấu hổ. Cứ làm sao lo cho hợp tác xã lên, đấy mới
là cái thẻ quý nhất”.Đó cũng là tâm tư của toàn bộ đảng viên trong Đảng bộ Đoàn
Xá. Tư tưởng "dân vi quý, xã tắc thứ chi" đã thấm vào trái tim từng đảng
viên, tạo ra một sức mạnh, một dũng khí gần như không gì lay chuyển nổi nữa.
Cũng năm này (1979), các xã lân cận như Thụy Hương, Hòa Nghĩa, Bát Trang...
cũng đều thấy rõ cái hay cái đúng của khoán nên đều âm thầm học theo Đoàn Xá.
Theo tư tưởng về sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa của Trung ương, mỗi huyện phải
là một pháo đài, có công nghiệp hiện đại, có nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa
tiên tiến, phải có một thị trấn tương đối lớn làm trung tâm cho cả huyện. An Thụy
không có nổi những điều kiện như thế, do đó bị giải thể để chia về hai huyện lớn
là huyện Đồ Sơn, có thị trấn Đồ Sơn và huyện Kiến An có thị trấn Kiến An. Ngày
05/03/1980, xã Đoàn Xá chính thức nhập về huyện Đồ Sơn theo Quyết định số 72-CP
của Chính phủ. Thế là cùng với sự giải thể huyện An Thụy, vụ kiểm điểm và thi
hành kỷ luật cũng được bỏ qua. Cuộc sáp nhập này không những giúp cho Đoàn Xá
thoát được kỷ luật, mà còn đem tới cho Đoàn Xá một cái "ô", đó là những
cấp trên mới rất ý hợp tâm đầu. Chính Ở Đồ Sơn, đã bắt đầu xuất hiện một sự
"sáp nhập" giữa ý tưởng của lãnh đạo huyện và lãnh đạo tỉnh với những
ý tưởng của các cơ sở muốn khoán. Ý tưởng Đoàn Xá đã bùng lên thành những ý tưởng
lớn, thành một phong trào cả huyện, cả thành phố rồi cả nước.
Thực tiễn kinh tế nước
ta lúc bấy giờ không riêng gì ở Đoàn Xá, ở Hải Phòng mà các địa phương trên khắp
cả nước đều lâm vào tình trạng thiếu ăn. Quá trình thực tiễn đó dẫn đến sự thay
đổi về tư duy kinh tế của lãnh đạo huyện lãnh đạo thành phố vì họ cũng thấy được
những hiệu quả mà mô hình khoán được thực hiện ở Đoàn Xá mang lại. Cán bộ huyện
tỉnh đã tính đường đi nước bước kĩ càng để không trái với nguyên tắc của Trung
ương đề ra. Cần có bằng chứng thực tế để thuyết phục Trung ương chứ không thể
nói suông. Từ những ý tưởng đó thành ủy quyết định đưa những cán bộ năng nổ nhất
về một số huyện để triển khai thí điểm mô hình khoán, làm cho những huyện đó trở
thành mẫu điển hình của mô hình này. Đến tháng 5/1980, Huyện ủy Đồ Sơn ra Nghị
quyết số 05- NQ/HU về cái gọi là "Thu chiêm, làm mùa" mà nội dung
chính là cho phép triển khai khoán sản phẩm trên 50% diện tích đất nông nghiệp
toàn huyện. Trong thực tế thì đến tháng 5 năm 1980, tất cả các xã trong huyện Đồ
Sơn đã lén lút khoán như Đoàn Xá rồi. Nay được dịp "thả phanh" thì
bùng dậy công khai hóa ngay. Từ mức khoán 50% diện tích, tiến rất nhanh tới con
số 100% diện tích cho khoán. Đoàn Xá từ chỗ nổi tiếng là nghèo nhất huyện, sau
đó lại nổi tiếng về tội vô nguyên tắc, vô kỷ luật, mất lập trường nay bỗng trở
thành tấm gương, là hình mẫu của cả huyện, với những con số không ai phủ nhận
được: Mức ăn của nông dân năm 1980 so với năm 1979 tăng 3kg/người/tháng. Giá trị
ngày công tăng từ 0,70 lên 0,90 kg/công, về nhất huyện trong việc hoàn thành
nghĩa vụ lương thực với Nhà nước (trước thời hạn hai tháng). Ngày 19 tháng 5,
đúng ngày kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ, toàn thể đảng viên của Đoàn Xá đã được nhận
lại thẻ Đảng. Rồi đến năm 1982 thì Đoàn Xá được Thành ủy tặng lá cờ thi đua: xã
đi đầu trong khoán lúa.
Khoán ở huyện Đồ Sơn tỉnh
đã biết và cử cán bộ xuống kiểm tra. Tháng 6/1980, cả Bí thư Thành ủy lẫn Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân thành phố cùng xuống Đoàn Xá. Các ông đội nón, xắn quần lội xuống
thăm đồng. Khi nhìn thấy rõ thực tế, cả hai vị lãnh đạo không những không hạch
sách gì, mà ngược lại, tỏ ra rất tâm đắc. Các ông còn gửi gắm ở Đoàn Xá niềm hy
vọng lớn là: từ đây nhân ra cả các huyện khác, rồi cả nước... Sau khi lãnh đạo
thành phố đi thăm Đoàn Xá về được một tháng, ngày 27 tháng 6 năm 1980, Ban Thường
vụ Thành ủy Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TU, cho áp dụng khoán trên
100% đất nông nghiệp của Hải Phòng. Đây là một quyết định rất dũng cảm, vì vào
lúc đó trên Trung ương chưa hề có chủ trương này. Lựa chọn của Hải Phòng là: mạnh
dạn đi trước, thuyết phục sau. Để nhân rộng mô hình khoán, Thành ủy quyết định
chọn huyện Kiến An làm điểm để chỉ đạo triển khai Nghị quyết 24 và kết quả là: gia
đình nào cũng thu gặt được thóc, ông vui mừng tuyên bố “như thế này thì nông
dân sẽ không còn đói nữa”, ông chỉ thị cho huyện viết ngay một báo cáo tỉ mỉ về
khoán ở Kiến An và đem báo cáo với Ban Bí thư về những kết quả đáng phấn khởi này.
Tuy hình thức khoán hợp
lí và mang lại hiệu quả nhưng làm như thế là trái với đường lối của Đảng.tình
thế đó đặt ra cho lãnh đạo tỉnh Hải Phòng bài toán hóc búa. Cơ sở thực tiễn đã
thực hiện và chứng minh khoán là tốt. Nhưng lý thuyết và nghị quyết của Đảng
thì vẫn phải là tập thể hóa ngày càng cao độ để đi lên sản xuất lớn XHCN. Vấn đề
là làm sao thuyết phục được Trung ương và các tỉnh bạn. Như trên đã nói, Bí thư
Thành ủy Bùi Quang Tạo đã ba, bốn lần lên làm việc với Ban Bí thư, nhưng vẫn
chưa nhất trí. Số người trực tiếp phản đối thì không nhiều. Nhiều hơn là số còn
"thận trọng”. Để nhận được sự thống nhất của Trung ương đó, các ông đã bắt
đầu thuyết phục từ Tổng Bí thư, vì Tổng Bí thư là người có vị trí cao nhất, có
uy tín cao nhất, đồng thời cũng là người nhạy bén với cái mới, trọng những kết
quả thực tiễn, không câu lệ về những nguyên tắc chung chung. Nếu Tổng Bí thư đồng
ý thì sẽ tạo được một "áp lực" để thuyết phục tiếp các đồng chí còn lại.
Ngày 2 tháng 10 năm 1980, Tổng Bí thư xuống thăm Hải Phòng. Từ Đồ Sơn đến Kiến
An, ông thấy trên các thửa ruộng khoán lúa xanh tốt, nông dân phấn khởi, đời sống
đi lên, khác hẳn những nơi còn duy trì lối làm ăn tập thể. Đến tận địa phương mắt
thấy tai nghe và vốn là người bộc trực, sôi nổi, ông tuyên bố rằng: nước mình từ
sản xuất nhỏ đi lên, phải biết cách làm của mình, chứ cứ áp đặt cách làm của
người ta vào nước mình thì khó thành công lắm. Người thứ hai mà Hải Phòng muốn
chọn để báo cáo là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng đã xuống thăm Hải phòng
và thực tế cuộc sống của người dân cùng hiệu quả trong sản xuất công nghiệp nên Thủ tướng đã đồng
ý, trước khi chia tay Thủ tướng còn nhắn nhủ
các đồng chí lãnh đạo Hải Phòng phải cố gắng thuyết phục Chủ tịch là Trường
Chinh để sớm thống nhất.
Đối với Chủ tịch Trường
Chinh, bàn đến chuyện khoán thì không chỉ đơn giản là chuyện đúng sai, mà còn
là một vấn đề tâm lý rất tế nhị. Trong những lần tiếp xúc đầu tiên với đồng chí
Trường Chinh, chưa đả động gì đến chuyện khoán. Trong những lần sau, lựa lúc
vui vẻ, mới thử hé ra vấn đề khoán trong nông nghiệp. Nhưng thấy Chủ tịch vẫn
yên lặng, không phản đối, cũng không đồng tình. Đây quả thật là một vấn đề vô
cùng khó khăn và cần sự kiên trì của tập thể cán bộ và nhân dân Hải phòng. Ngày
1 Tết Tân Dậu (tức ngày 5 tháng 2 Dương lịch năm 1981, gần một tháng sau khi đã
có Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán), Chủ tịch Trường Chinh về ăn Tết và
chia vui với Hải Phòng, với những thành quả mà cán bộ và nhân dân đã đạt được
trong sản xuất nông nghiệp. Thế là cuối cùng cũng có được sự ủng hộ của Chủ tịch.
=> Đến năm 1981 tư
duy của những nhà lãnh đạo Đảng về mô hình kinh tế nông nghiệp đã thây đổi
không còn áp dụng một cách rập khuôn máy móc mô hình kinh tế tập thể hóa ở Liên
Xô mà căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước để đưa ra mô hình khoán phù hợp.
Có được điều đó là nhờ tập thể cán bộ và nhân dân xã Đoàn Xá, huyện Đồ Sơn đã
dũng cảm kiên quyết đi đầu thực hiện khoán chui và từng bước thuyết phục được
cán bộ huyện tỉnh đến lãnh đạo trung ương
bằng những thành tích mà tập thể cán bộ và nhân dân hợp tác xã Đoàn Xá,
huyện Đồ Sơn đã đạt được, từ một xã rất nghèo đã vươn lên trở thành hợp tác xá
đi đầu trong việc hoàn thành mọi chỉ tiêu nghĩa vụ mà nhà nước giao cho, nhân dân
có được đời sống ấm no không còn tình trạng người làm nông nghiệp mà bị đói như
trước kia nữa. Mô hình khoán được triển khai ở Đoàn Xá năm 1976 đến năm 1981 trải
qua quá trình đấu tranh và thuyết phục lâu dài, kiên trì đã được những nhà lãnh
đạo cao nhất của Trung ương đồng ý với hình thức khoán này.
Trước khi được Trung
ương đồng ý thì việc làm đột phá của hơp tác xã Đoàn Xá, huyện Đồ Sơn, Hải
phòng bị phê phán kịch liệt vì chuyện khoán không chỉ là chuyện của một hợp tác
xã, một địa phương mà là chuyện của cả nước, chuyện về đường lối con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa.Trong bối cảnh đó Ban bí thư quyết định tổ chức cuộc họp
để lấy ý kiến rộng rãi ở cơ quan Trung ương để tìm hướng giải quyết (8-1980)
nhưng tại hội nghị này ngoài Bộ Nông nghiệp và Hải Phòng ra sức bảo vệ còn đa số
là phản đối. Đặc biệt trong số ý kiến ủng hộ khoán hộ thì có ông Võ Chí Công
lúc đó là ủy viên Bộ Chính trị, phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp, Trưởng ban
Cải tạo Nông nghiệp. Với tính bộc trực, thẳng thắn của người miền Trung, ông
tuyên bố: "Khoán là đúng quá rồi! Các đồng chí đừng sợ chi hết. Nếu khoán
có làm cho trời sập thì tôi cũng sẽ xin chịu trách nhiệm cùng các đồng chí”. Để
dư luận trước khi công bố chỉ thị về khoán , Ban Bí thư tổ chức tại ngay Hải
Phòng một hội nghị bốn ngày, từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 1. Chủ đề hội nghị được
đặt một cái tên rất ôn hòa là "Củng cố HTX nông nghiệp và cải tiến công
tác khoán". Hội nghị đã khẳng định khoán không còn là việc trái với đường
lối của Đảng. Khi hội nghị kết thúc cũng
là lúc Trung ương đưa ra chỉ thị về khoán để tránh dùng thuật ngữ khoán hộ. Đồng
chí Quang Tạo và nhà báo Hữu Thọ đã đưa ra một sáng kiến: lấy tên cho chỉ thị
là “khoán đến nhóm lao động và lao động xã viên” hay còn được gọi là chỉ thị
100 được ban hành ngày 13/1/1981.
=> Chỉ thị 100 chỉ
được thể hiện trên mười trang giấy nhưng nó thể hiện ý nghĩa lịch sử lớn lao: liên
quan đến vận mệnh của hàng chục triệu nông dân, liên quan đến cái dạ dày của cả
dân tộc Việt Nam. Mười trang giấy đó cũng chính là sự tích tụ bao nhiêu những
trăn trở, những tìm tòi suốt hàng chục năm của nhiều bộ óc, từ Trung ương tới địa
phương. Nó cũng chấm dứt một thời kỳ hàng chục năm ách tắc và trì trệ của cả thực
tiễn kinh tế lẫn tư duy kinh tế. Đó cũng là một bước đột phá lớn để từ đây, mở
ra cả một phong trào khoán công khai và hợp pháp trên toàn quốc, nó cũng gián
tiếp giải oan cho Vĩnh Phúc với cơ chế khoán hộ 15 năm về trước. Nó là kết quả
của cuộc đấu tranh gian khổ của hợp tác xã Đoàn Xá, huyện ủy Đồ Sơn, Hải Phòng
để mô hình khoán được nhân rộng trên khắp cả nước.
4.
Kết quả, đánh giá
4.1.
Kết quả
Khoán từ Đoàn Xá đến Đồ
Sơn, Kiến An rồi toàn Hải Phòng và cả nước.
Huyện Đồ Sơn, mức ăn của
nông dân năm 1980 so với năm 1979 tăng thêm 4 kg/tháng. Năm 1980 cũng là năm đầu
tiên trong lịch sử, Đồ Sơn hoàn thành nghĩa vụ lương thực trước thời hạn và còn
vượt mức 2%. Huyện Kiến An về năng suất lúa: Năm 1980: 31,61 tạ/ha. Năm 1981:
51,6 tạ/ha. Năm 1982: 62, 58 tạ/ha. Còn về mức nộp thuế và bán lương thực nghĩa
vụ của Kiến An cho Nhà nước, từ khi thực hiện khoán, đã tăng vượt bậc. Đây là
thành tích mà trong cơ chế cũ thường khó lòng đạt được: năm 1980: 3.479 tấn,
năm 1981: 5.028 tấn, năm 1982: 11.300 tấn. Nếu tính toàn thành phố Hải Phòng
thì sản lượng nông nghiệp sau khoán đã thay đổi rất rõ rệt: Sản lượng toàn
thành phố năm 1979 là 187,6 nghìn tấn. Năm 1980 mới khoán một vụ là vụ mùa,
nhưng sản lượng đã nhích lên tới 191,7 nghìn tấn. Sang năm 1981, áp dụng khoán
cả hai vụ, sản lượng vọt lên 259,9 nghìn tấn.
Nếu tính trên cả nước, thì sản lượng lương thực
(lúa) năm 1980 là 14,406 triệu tấn, sang năm 1981, thực hiện Chỉ thị 100, sản
lượng lên 15 triệu tấn, năm 1982 lên 16,82 triệu tấn. Mức huy động lương thực
cho Nhà nước cũng được cải thiện rất rõ rệt. Tính trên cả nước, năm 1979, chỉ
huy động được 1,4 triệu tấn. Sang năm 1980 là 2 triệu tấn, 1981 là 2,78 triệu tấn,
Những con số kể trên đã có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn nhiều so với những lý
thuyết về sản xuất lớn, về cách mạng khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, để có được những
kết quả đáng khích lệ nói trên là cả một quá trình gian nan mà tập thể hợp tác
xã Đoàn Xá, huyện Đồ Sơn và cả tỉnh Hải phòng đã nỗ lực cố gắng dũng cảm đấu
tranh để bảo vệ cách làm mới đột phá và tiến hành một lộ trình để thuyết phục cấp
trên bằng những thành tích kết quả mà mình thực hiện được khi triển khai mô
hình khoán, chịu sự phản đối của dư luận, cán bộ được coi là phạm tội tày đình
khi không cần thẻ Đảng coi việc ổn định đời sống nhân dân là tấm thẻ quý nhất. Trước
những khó khăn gian khổ đó cán bộ và nhân dân quyết không lùi bước, đoàn kết với
nhau để cùng sản xuất cùng làm cho công
tác khoán trở thành mô hình sản xuất trong cả nước. Và đặc biệt đã làm thay đổi
tư duy về kinh tế nông nghiệp của những người lãnh đạo cao nhất của Đảng mở đầu
cho tư duy đổi mới là bước nhảy vọt đầu tiên. Đó là những đóng góp lớn mà tập
thể hợp tác xã Đoàn Xá, huyện ủy Đồ Sơn, Hải Phòng cho lịch sử dân tộc trong tiến
trình đổi mới đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4.2.
Đánh giá
4.2.1. Tích cực
Việc làm của HTX Đoàn Xá và huyện uỷ Đồ
Sơn thể hiện tư duy đổi mới trong cách nghĩ và cách làm. Những người lãnh đạo
đã xuất phát từ chính tình hình địa phương để đề ra hình thức khoán sản phẩm nhằm
hạn chế những mặt tiêu cực của hình thức hợp tác xã.
Việc áp dụng hình thức khoán sản phẩm đã
tạo ra bước đột phá trong kinh tế nông nghiệp của địa phương, lần đầu tiên huyện
Đồ Sơn hoàn thành nghĩa vụ lương thực trước thời hạn và còn vượt mức 2%, mức ăn
của nông dân năm 1980 so với năm 1979 tăng thêm 4 kg/tháng.
Học tập từ HTX Đoàn Xá và huyện uỷ Đồ
Sơn đã lãnh đạo thành phố đã tạo điều kiện cho Hải Phòng thay đổi từ hình thức
hợp tác xã sang hình thức khoán sản phẩm, Hải Phòng trở thành tỉnh đi đầu về
hình thức mới này.
4.2.2. Hạn chế
Việc làm của HTX Đoàn Xá và huyện uỷ Đồ
Sơn ban đầu mang tính địa phương, còn thực hiện theo kiểu “chui” nên còn nhiều
hạn chế, chưa nhận được sự ủng hộ từ các cơ quan, lãnh đạo cấp trên.
Khoán sản phẩm mà HTX Đoàn Xá và huyện uỷ
Đồ Sơn tiến hành còn phụ thuộc vào điều kiện của từng địa phương nên việc áp dụng
rộng rãi chưa mang kết quả cao nhất.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dùng trong các trường đại học, cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dùng cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) , NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3.
Đặng
Phong
(2009), “Phá rào” trong kinh tế vào đêm
trước
Đổi Mới,
NXB Tri thức, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét