TÌNH HÌNH NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NHÀ LÝ (1009 - 1225)

Bối cảnh lịch sử 
Năm 1005 Lê Hoàn mất Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Cuối năm 1009 Lê Long Đĩnh qua đời, triều thần có ý muốn thay thế triều Tiền Lê bằng một chính quyền mới. Vì vậy các tăng lữ và đại thần đứng đầu là nhà sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra nhà Lý.
Triều đại nhà Lý là triều đại ổn định lâu dài đầu tiên trong lịch sử dân tộc từ sau khi giành độc lập, tồn tại từ năm 1009 đến năm 1225 trong hơn 216 năm . Trong thời kỳ đầu tồn tại của mình, nhà Lý đã chứng kiến và đối mặt với nhiều vấn đề lịch sử. Trong nước, một thời gian dài sau khi khi giành được độc lập, đất nước ta đòi hỏi phát huy tối đa tiềm lực quốc gia, mở ra một thời kỳ phát triển ổn định lâu dài cho dân tộc, nhất là sau hàng loạt sự tồn tại và phát triển của các vương triều ngắn ngủi. Vấn đề nổi loạn các châu động miền núi và miền biên viễn xa xôi, các thế lực hào trưởng địa phương tại châu thổ vẫn luôn âm ỉ, ta có thể nhận thấy các vị vua nhà Tiền Lê phát động nhiều cuộc thân chinh đánh dẹp khắp mọi nơi trong cả nước. Đối với bên ngoài, sau thất bại của cuộc xâm lược năm 981, đất nước ta vẫn còn phải chịu sức ép trong vấn đề quan hệ ngoại giao với nhà Tống, để rồi đến năm 1075 với nhiều nguyên nhân khác nhau, cuộc chiến tranh giữa nhà Lý và nhà Tống chính thức nổ ra. Đứng trước những vấn đề thách thức trên, các vị hoàng đế triều Lý đã ra nhiều biện pháp nhằm xây dựng một bộ máy chính quyền nhà nước trung ương tập quyền nhằm đảm bảo được sự ổn định và phát triển lâu dài, phát huy tiềm lực trong nước. Đây là tiền đề đẩy lùi được sự xâm lược của nhà Tống vào năm 1077.
Sau khi lên ngôi vua Lý Công Uẩn đã ban hành một loạt những biện pháp nhằm ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Ngoài việc xoá hết nợ thuế cũ cho những người mồ côi, goá bụa và già yếu hoặc tàn tật, đồng thời xoá thuế nhân dân cả nước trong ba năm liền, nhà vua còn ban bố lệnh bãi bỏ ngục tụng và cho phép nhân dân trong cả nước, hễ ai có điều gì oan ức thì cứ đến tận triều đình để tâu bày, nhà vua sẽ đích thân xét xử. Đây là những việc làm thể hiện sự nhân đạo của nhà vua mà nó còn làm cho sự tin tưởng của người dân đối với triều đình Lý tăng lên.
Dưới triều Lý còn có một sự kiện hết sức nổi bật đó chính là việc dời đô về kinh thành Thăng Long. Do nhu cầu đòi hỏi ngày càng lớn của công cuộc xây dựng đất nước cũng như việc đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa của một quốc gia độc lập hùng cường. Thấy được vị trí thuận lợi của kinh thành Thăng Long, cũng như sự khó khăn hiểm trở của Hoa Lư, Lý Công Uẩn đã ra chiếu dời đô Thành Đại La được đổi thành Thăng Long. Sự kiện rời đô của nhà Lý từ Hoa Lư về Thăng Long cũng đánh dấu sự phát triển tiến bộ về mặt tư tưởng của nước ta lúc bấy giờ.
Tổ chức bộ máy nhà nước
Sau khi ổn định được tình hình trong nước buổi sơ khai thì nhà Lý bắt tay vào xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước.
Bộ máy chính quyền nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập quyền. Như đã biết nhà nước quân chủ Việt Nam được xác lập từ thế kỷ X, bắt đầu là nhà Ngô sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán năm 938, trải qua các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê thì đến thời nhà Lý bộ máy nhà nước ta mới được phát triển và hoàn thiện hơn so với thời đại trước đó.
Trong buổi đầu Lý Thái Tổ vẫn giữ nguyên cơ cấu bộ máy chính quyền nhà nước cũ cho đến khi dời đô về Thăng Long, các vua nhà Lý mới dần củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước phù hợp.
Nhà nước quân chủ thời Lý đặt nền tảng cho sự phát triển nhà nước quân chủ tập trung với hệ thống chính quyền thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Đến thời Lý đứng đầu nhà nước vẫn là vua,  phạm vi quyền hạn của của nhà vua thì ngày càng được mở rộng. Nhà Lý đã kiện toàn bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
Cương vực lãnh thổ dưới triều Lý 
Triều đình Nhà Lý đóng đô tại Thăng Long (Hà Nội) ngày nay,vua Lý Thánh Tông đã đổi tên nước ta thành quốc hiệu Đại Việt, cương vực lãnh thổ dưới triều Lý gần tương ứng với vùng Bắc Bộ ngày nay kéo dài tới vùng Quảng Trị ngày nay. năm 1069 dưới triều đại Lý chinh phạt Chiêm Thành. Kết quả là Chiêm Thành đã nhường 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh, biên giới phía Nam kéo dài tới tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Hoạt động đối ngoại của bộ máy nhà nước
Quan hệ với nhà Tống : Nhà Lý thực hiện chính sách củng cố mối quan hệ ngoại giao với nhà Tống. Từ thời vua Lý Thái Tổ đến Lý Nhân Tông, triều đình Nhà Lý cử 23 đoàn sứ bộ sang cống Nhà Tống, với các hoạt động hòa hiếu như ai điếu vua Tống lúc băng hà hay mừng hỷ vua Tống lên ngôi, hay nhận phong, cầu phong. Đây đều là những nghi lễ cần thiết cho hoạt động ngoại giao để đối phó với nhà Tống ở phương Bắc. Tuy nhiên, mối dọa từ phương Bắc không vì thế chấm dứt, nguy cơ chiến tranh với nhà Lý, khiến triều đình Nhà Lý thường xuyên cảnh giác. Sau khi cuộc chiến 1077 kết thúc, nhà Lý cũng đã tiến hành các hoạt động hữu nghị với nhà Tống đồng thời công khai đòi lại các châu động phía Bắc đã bị mất vào tay quân Tống và cũng đạt được một số thành tựu nhất định.  
Quan hệ ngoại giao với các nước phương Nam: Không chỉ đối phó với phương Bắc, tại phương Nam nhà Lý còn phải đối phó với sự nhũng nhiễu cướp phá từ Chiêm Thành, và Chân Lạp, nhà Lý nhiều lần phát binh đánh đuổi, thậm chí tiến vào cả kinh đô của Chiêm Thành.
Tổ chức chính quyền trung ương
Thời Lý, bộ máy chính quyền Trung ương kiện toàn hơn gồm 3 bộ phận: những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua; cơ quan đầu não tại triều đình và các cơ quan chuyên môn.
Trong bộ máy chính quyền trung ương. Theo sách Việt sử lược, ngay sau khi quần thần dâng tôn hiệu, Lý Công Uẩn truy tôn cha, mẹ, lập Hoàng hậu, phong tước cho con cái, anh, em ruột. Đào Cam Mộc, người có công đầu phò giúp thành lập Vương triều được phong là Nghĩa Tín Hầu và được Lý Thái Tổ gả con gái cả là Công chúa An Quốc. Trần Cảo được phong làm Tướng công, Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Quy Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó, Bùi Xa Lỗi làm Tả Kim ngô, Đảm Thản làm Tả Vũ vệ, Đỗ Gián làm Hữu Vũ vệ. Như vậy, Lý công uẩn đặt ra chức Tể tướng và Á tướng. Theo ĐVSKTT, Lý Công Uẩn phong Trần Cảo làm Tướng Công => Thời kỳ ban đầu xây dựng chính quyền Trung ương tập quyền, Nhà Lý đã xây dựng chính quyền trung ương dựa trên sự gắn kết các mối quan hệ hoàng tộc với các quan lại triều đình.
Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua gồm 3 bộ phận: các sảnh, Hàn lâm viện và bí thư giám. Tuy nhiên thì dưới thời Lý Bí thư giám chưa được đặt nên về phần văn thư phòng chỉ có hai bộ phận là sảnh và Hàn lâm viện.
Cơ quan đầu não bao gồm những chức quan đứng đầu triều đều là những quan lại được vua ủy nhiệm trực tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị trong nước đó là tể tướng. Á tướng là các chức vu đứng sau Tể Tướng, có vị trí thứ hai trong triều đình, vào thời Lý Á tướng gồm Tả, Hữu tham tri chính sự. Vai trò của Á tướng và giúp Tể tướng điều hành các các công việc trong nước. Dưới Tể tướng và Á tướng là các khu mật viện với các chức quan Tả Sứ và Hữu Sứ đứng đầu, trông coi việc binh  Dưới tể tướng, á tướng có các cơ quan chính yếu như khu mật viên và các bộ. Các ghi nhận theo sử kí và bia kí đã thể hiện được dưới triều Lý đã có đủ 6 bộ, đó là Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Hình, Bộ Công, Bộ Lại, Bộ Binh. Bộ dưới thời Lý chưa thấy phân định rõ ràng tuy nhiên thì chức thượng thư đứng đầu bộ đã được đặt ra.  Làm việc trong khu mật viên đều là những quan thân cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật trong triều đình
 Cơ quan chuyên môn được đặt ra nhằm giúp việc cho cơ quan đầu não của triều đình. Cơ quan chuyên môn đầu tiên là quốc tử giám - cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục trong nước. Thời Lý  vẫn chưa ghi nhận việc đầy đủ các cơ quan chuyên môn như thời Trần và thời Lê sau đó.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI LÝ
 Như vậy bộ máy hành chính Trung ương thời Lý có thể thấy được rằng mức độ chuyên chế của nhà vua chưa cao so với thời Lê sơ. Cơ quan đầu não là những chức quan đứng đầu triều được vua ủy nhiệm trực tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị. Song bộ máy chính quyền trung ương bước đầu đã có sự kiện toàn đáng kể và tiến bộ hơn so với thời kì trước
Tổ chức chính quyền địa phương
Sau khi kiện toàn bộ máy chính quyền ở cấp Trung ương, nhà Lý cũng tiến hành xây dựng bộ máy hành chính các cấp cơ sở làm nền tảng vững chắc cho toàn bộ hệ thống chính quyền của nhà nước bằng việc chia lại các khu vực hành chính.
Việc phân chia các khu vực hành chính tại địa phương. Đơn vị hành chính đứng đầu cấp chính quyền địa phương thời Lý được gọi là Phủ, Lộ. Một sự kiện đặc biệt đó là vua sáng lập nhà Lý đã đổi, châu Cổ Pháp, quê hương của Lý Công uẩn thành phủ Thiên Đức, đổi vùng cố dô Hoa Lư thành phủ Thiên Trường.Như vậy,… Lý Công Uẩn cho đổi 10 đạo thành 24 lộ, châu Hoan (Thanh Hóa ), châu Ái (Nghệ Tĩnh) làm trại. Dưới các phủ, lộ là các hướng ấp, giáp, xã thôn. Mỗi phủ, lộ chia ra làm nhiều huyện đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện là viên huyện lệnh. Những tên gọi hệ thống cấp hành chính địa phương có sự phân biệt cấp độ kiểm soát của chính quyền Trung ương tại Thăng Long, ta có thể nhận thấy, tại các vùng đồng bằng, được gọi là phủ, lộ, tại các vùng núi hay các miền biên ải xa xôi được gọi là châu hoặc trại.
Tuy nhiên, tên gọi hành chính thời kỳ này vẫn chưa thống nhất và liên tục thay đổi. Vùng Thanh Nghệ Tĩnh dưới triều Lý liên tục thay đổi có khi là trại, có khi đổi thành châu, rồi lại thành phủ. Nhà Lý, cũng đặt các quan chức giúp triều đình quản lý công việc tại đây. Quan đứng đầu các phủ, lộ thời kỳ này gọi là tri phủ, phán phủ, đứng đầu các châu là Tri châu, các châu miền biên viễn thì đạt chức Quan mục thường do các tù trưởng địa phương đứng đầu. Các chức quan này được triều đình quản lý thông qua các tù trưởng địa phương. Nhà Lý dùng chính sách ki mi để ràng buộc, một mặt dùng chế độ thế tập các thủ lĩnh để cai quản. Nghĩa là họ vẫn có quyền quản lý vùng đất của mình theo chế độ thế tập địa phương nhưng vẫn phải đảm bảo thuần phục triều đình và giữ chế độ tiến cống đều đặn. Tuy nhiên, kiểu quản lý này phụ thuộc rất lớn vào uy quyền của triền đình Thăng Long và lòng trung thành của các tù trưởng rất dễ thay đổi khi có sự biến như chiến tranh hay sự thay thế lớp người lãnh đạo địa phương. Khi nhà Tống xâm lược nước ta, một số tù trưởng tại các châu động đầu hàng và dẫn đường cho quân Tống. Chính vì vậy, nhà Lý đã dùng nhiều cách thức khác nhau cả lôi kéo mềm mỏng và vũ lực để đảm bảo sự gắn kết lãnh thổ như gả công chúa cho tù trưởng hay dùng vũ lực đánh dẹp nổi loạn, đưa thủ lĩnh thân nhà Lý lên nắm quyền. Ta có thể thấy, các ba vị vua đầu triều Lý liên tục dẫn quân đội đi đánh dẹp các châu gần biên giới phía Bắc, các cuộc nổi loạn tại đây luôn âm ỉ, đôi khi luôn cuốn cả nhà Tống vào như cuộc nổi loạn của Nùng Trí Cao. Riêng đối với các châu có vị trí hiểm yếu, nhà Lý cử người trong thân tộc cai quản.
Do đường ranh biên giới giữ nhà Tống và nước ta lúc bấy giời đường biên giới vẫn chồng chéo chưa rõ ràng, các vùng châu tại biên giới được hiểu như một vùng đệm đôi khi thuần phục họ Lý, đôi khi chịu sự chia phối của nhà Tống, hoặc đôi khi có xu hướng ly khai thành vùng lãnh thổ riêng biệt. Chính vì tính chất chưa ổn định thời kỳ đầu và cả các nguy cơ ly khai bên trong và xâm lược từ bên ngoài nên các Võ quan trong bộ máy triều đình được trọng dụng hơn các Văn quan.
Ngoài đối phó với vấn đề địa phương , nhà Lý còn phải đối mặt với những nguy cơ từ chính quyền trung ương tại Thăng Long . Ta có thể thấy, nếu vào thời kỳ đầu của Lý triều, sự kiện loạn Tam vương có kết cục khác thì có lẽ, nhà Lý đã đi vào vết xe đổ của các triều đại trước nên nhà Lý bắt đầu tăng cường sự chuyên chế cả trung ương lẫn địa phương. Chúng ta cũng ghi nhận những ảnh hưởng màu sắc đạo lý của Nho giáo pha trộn với tín ngưỡng dân gian bản địa. Sau loạn Tam vương, Lý Thái Tông định lệ hằng năm bá quan văn võ phải đến đền Đồng Cổ (Yên Thái, Hà Nội) thực hiện nghi lễ tuyên thề: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung. Ai bất hiếu, bất trung, xin quỷ thần làm tội”
Như vậy, mức độ tập quyền của chính quyền trung ương dưới triều Lý chưa cao, vấn đề biên giới quốc gia tại các miền núi và biên viễn xa xôi vẫn luôn là vấn đề được triều đình quan tâm xuyên suốt thời gian tồn tại của mình. Nhưng  những nỗ lực của các vua triều Lý rất đáng được ghi nhận trong quá trình củng cố, đặt nền tảng xây dựng hệ thống chính trị, hành chính theo khuynh hướng quân chủ tập quyền. Bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương tuy chưa hoàn thiện nhưng khá kiện toàn. Nhà nước quân chủ thời Lý đã đặt nền tảng cho sự phát triển về sau một nhà nước quân chủ tập trung quan liêu.
Chế độ quan lại
Đội ngũ quan lại văn võ làm trong bộ máy nhà nước được chia làm 9 phẩm và được giữ nhiều trọng trách khác nhau cả trong và ngoài triều. Quan lại làm việc trong triều và ngoài các phủ lộ châu thời Lý đều không được hưởng chế độ lương bổng thường xuyên. Mãi đến năm 1067, vua Lý Thánh Tông mới bắt đầu cấp bổng lộc cho các quan đô hộ phủ sĩ sư ( tức quan coi về ngục).
Cùng với một bộ máy chính quyền kiện toàn thì nhà Lý cũng chú ý xây một hệ thống quan chức để điều hành bộ máy hành chính quốc gia theo phương thức riêng của dòng họ Lý. Để xây dựng hệ thống quan, một mặt nhà Lý tìm cách đẩy nhanh quá trình quý tộc hoá tầng lớp quý tộc dòng họ Lý, mặt khác đã sử dụng, cất nhắc những công thần khai quốc và cuối cùng là xúc tiến dần việc đào tạo đội ngũ quan lại nhớ sĩ mới, bổ sung vào bộ máy chính quyền nhà nước.
Việc tuyển lựa quan lại được tiến hành theo ba phương thức là nhiệm tử, thủ sĩ, và tiền. Đến cuối thế kỷ thứ XI lại có cả tuyển lựa qua thi cử Nho học
Về hình thức tuyển cử
Nhà Lý thành lập trên cơ sở sự suy tàn của nhà Tiền Lê nên khi mới thành lập nhà Lý cũng sử dụng lại quan lại triều Tiền Lê. Để tuyển thêm quan lại thì nhà Lý cũng rất chú trọng phương thức tuyển cử để bổ sung đội ngũ quan mới. Sau khi lập Văn Miếu  -Quốc Tử giám thì nhà vua cũng lấy những người tài văn võ giúp việc nước. Tuy nhiên thì khi kiện toàn bộ máy để đủ người thì vua Lý Thái Tổ đã tuyển cử quan lại từ trong hàng ngũ thân tộc và những người có công để đưa vào bộ máy chính quyền nhà nước. Tức là nhà Lý bổ sung quan lại bằng con đường từ những người thuộc hàng ngũ thân tộc (những người thuộc dòng họ Lý) và từ hàng ngũ thân huân (những người thân thích có công lao vào việc giúp triều đình. Ngoài ra, giúp việc cho bộ  máy nhà nước còn có một tầng lớp cao tăng gọi  là Tăng quan. Vai trò của hệ thống tổ chức tăng quan này gắn liền với sự phát triển của Phật giáo. Đội ngũ tăng quan này có trình độ học vấn uyên bác, thường xuyên được hoàng tộc đàm đạo và trọng dụng với vai trò như Quốc sư, đồng thời giúp triều đình quản lý về mặt hành chính các tông đồ và chùa chiền trong cả nước.
Với chế độ tuyển cử rộng rãi, lớp quan bổ sung cho bộ máy nhà nước cũng được gia tăng. Nhưng để bổ sung cũng như tăng thêm hỗ trợ đặc quyền đặc lợi cho đội ngũ quý tộc quan liêu thì nhà Lý cũng thêm hình thức nhiệm tử trong hình thức tuyển quan lại.
Chế độ nhiệm tử có từ thời Đinh và Tiền Lê trước đó, đến thời Lý vẫn còn tiếp tục. Nhiệm tử là hình thức mà là dùng con cháu các quan lại được tập ấm. Tuy nhiên thì hình thức này cũng không còn được coi trọng do không đảm bảo được đội ngũ quan lai.
Hình thức nộp tiền. Phương thức này ở thời Lý không thịnh hành như thời thời kì sau. Nhưng hình thức này chắc chắn không thể đem lại hiệu quả.
 Hình thức khoa cử
Nhà Lý là triều đại đầu tiên sử dụng hình thức khoa cử để tuyển chọn nhân tài cho quốc gia thông qua con đường học vấn. Kì thi khoa cử đầu tiên của nước ta diễn ra vào năm 1075, Lê Văn Thịnh trúng tuyển, “là người khai hoa đầu tiên” của nước ta.
Tuy nhiên, các kì thi tuyển chọn quan lại qua hình thức khoa cử vẫn chưa liên tục, chỉ khi triều đình thật sự cần bổ sung quan lại mới tổ chức tuyển nho sinh, và số lượng kì thi ghi nhận được rất khiêm tốn so với hơn 200 năm tồn tại của nhà Lý. Vai trò và ảnh hưởng của quan lại xuất thân từ Nho sinh vẫn chưa đáng kể so với các quan lại xuất thân từ giới quý tộc và công thần. Như vậy, Nho học bắt đầu được coi trọng và bắt đầu được gia nhập vào các hoạt động của bộ máy nhà nước. Mặc dù vậy, so với thời Ngô - Đinh- Tiền Lê, việc tuyển chọn quan lại qua hình thức khoa cử là một bước tiến lớn trong việc lựa chọn nguồn nhân lực phục vụ cho bộ máy nhà nước.
Thông qua các con đường tuyển dụng quan lại nhà Lý đã có một đội ngũ quan chức khá đông đảo trong bộ máy chính quyền nhà nước theo một hệ thống từ trên xuống dưới, từ chính quyền trung ương tới địa phương.
Tổ chức quân đội
Ngay từ khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cũng rất chăm lo đến việc xây dựng lực lượng quân sự. Đó là biện pháp tích cực và chủ động nhất, có hiệu quả nhất trong việc đối phó với nạn ngoại xâm cũng như để tăng cường bảo vệ nhà nước quân chủ cũng như bảo vệ đất nước.
Quân đội nhà Lý có 2 bộ phận là quân bộ và quân thủy. Việc tuyển chọn binh lính cũng hết sức nghiêm ngặt đặc biệt là quân cấm vệ. Chức quân đứng đầu chỉ huy là đô thống
Quân đội thời Lý chia làm 2 loại: quân cấm vệ (quân trọng), quân ngoài(quân ở phủ, lộ tức quân địa phương gọi là lộ quân hay sương quân). Lực lượng quân địa phương là lực lượng đóng góp quan trọng với số lượng đông đảo khi có chiến tranh.
Đầu tiên là quân cấm vệ hay cấm quân, quân trong
Ngay từ đầu thì nhà Lý cũng chú ý ngay đến tới lực lượng cấm quân .Năm 1011 nhà vua đã cho đặt quân Tả hữu túc xạ (tức quân theo hầu xe vua,gồm 2 vệ đội tả và hữu). Năm 1028 khi vừa lên ngôi vua Lý Thái Tông cũng đã tăng cường ngày lực lượng cấm quân để bảo vệ kinh thành. Mỗi vệ lại chia làm hai tả hữu trực, đi quanh bảo vệ cấm thành. Mỗi vệ quân gồm có 200 người đều có tả hữu và phải túc trực thường xuyên. Cấm binh ngoài việc thích trên trán ba chữ Thiên tử quân còn được xăm mực hình rồng vào người.
Cấm quân thời Lý có vai trò quan trọng ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh đô của Đại Việt trong đó có nhà vua, hoàng tộc, cấm quân còn là lực lượng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn, đặc biệt là các sự biến trong cung. Trong những lần vua Lý đi chinh phạt dẹp loạn thì cấm quân cũng là lực lượng nòng cốt dưới trướng của nhà vua. Vai trò của cấm quân còn được thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống quân Tống do Lý Thường Kiệt lãnh đạo. Với vai trò quan trọng như vậy thì cấm quân cũng được hưởng chế độ lương bổng của triều đình.
Thứ hai là quân ở các phủ, lộ, châu.
Ngoài việc tăng cường lực lượng cấm quân thì nhà Lý cũng chú trọng việc tăng lực lượng quân đội đóng ở các phủ, châu, lộ do các trấn thủ chỉ huy. Quân đội này dưới thời Lý không có số lượng nhất định. 
Quân ở các phủ, lộ, châu được chia làm 2 hạng. Binh lính ở các miền xuôi gọi là chính binh. Binh lính ở miền thượng du và các châu xa gọi là phiên binh. Phiên binh được chia làm từng đội riêng không cho lẫn lộn với chính binh. Binh lính ở các châu, lộ, huyện không được hưởng chế độ lương bổng của triều đình mà phải tự túc.
Thời nhà Lý, chính sách "ngụ binh ư nông" là một chính sách hết sức độc đáo. Lực lượng chính của quân đội ở các châu, lộ, huyện đều xuất thân từ nông dân các làng xã nên với chính sách này những người nông dân mặc áo lính khi ra trận và khi kết thúc chiến tranh họ lại trở về đồng ruộng của mình. Chính sách này không chỉ đảm bảo đầy đủ lương thực cho quân đội, giảm nhẹ chỉ phí quốc phòng mà còn đảm bảo được việc giữ gìn sản xuất nông nghiệp, tăng cường tiềm lực quốc gia
Như vậy với việc xây dựng một lực lượng quân sự mạnh đã tạo cho nhà Lý một tổ chức quân đội khá vững mạnh có thể ổn định tình hình trong  nước, chặn đứng các âm mưu xâm lược từ các quốc gia láng giềng.
Tình hình pháp luật thời Lý
Nguồn pháp luật
Hình thức pháp luật nhà Lý có ba hình thức chính
Pháp điển hóa pháp luật - các bộ luật : Tháng 11/1042, nhà Lý ban hành bộ luật Hình thư luật thành văn đầu tiên trong lịch sử. Đây là bộ luật đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đời sống pháp luật của đất nước. Vì trước đó thì nước ta chưa có hệ thống luật pháp. Khi luật được ban hành giúp cho việc xử án trong nước được thuận lợi, rõ ràng.
Tập hợp hóa pháp luật - các tập luật lệ : ĐVSKTT ghi năm 1042, vua Lý Thái Tông “ sai Trung thư sửa định luật lệnh, tham chước những điều thông dụng trong thời ấy,…thành bộ Hình thư”, nghĩa là bản thân bộ Hình thư đã mang những nội dung về tập lệ lúc bấy giờ.
Văn bản đơn hành - các đạo chiếu lệnh   : Bên cạnh việc ban hành Hình thư, nhà Lý cũng ra nhiều văn bản luật lệ, chiếu lệnh đơn hành khác về mặt hình sự, hành chính, thuế khóa, dân sự, hôn nhân,…
Nội dung pháp luật
 Cùng với việc xây dựng lực lượng quốc phòng, bảo vệ quốc gia Đại Việt non trẻ và tăng cường sức mạnh cho nhà nước quân chủ nhà Lý cũng đã chú ý đến nền pháp chế đất nước. Pháp luật thời Lý một mặt chịu ảnh hưởng của Phật giáo, mặt khác phản ánh sâu sắc nền pháp chế Đại Việt, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, phong tục, tập quán, tâm lý và lối sống của dân Việt.
Kỹ thuật xây dựng các quy phạm pháp luật luôn chú ý tới cả luật và hình, trong đó cùng với giả định, quy định luôn luôn có chế tài kèm theo. Một số vấn đề trong lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự đã được đề cập như quy định về xét xử kiện tụng, tranh chấp; thời hiệu kiện tụng, giảm xa trong khi thụ hình...
Dưới thời Lý đã ban hành bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử đó là bộ Hình thư. Năm 1042, vua Lý Thái Tông sai quan Trung thư san định các luật lệnh cũ và châm trước thói tục trong dân gian biên soạn thành bộ Hình thư. Bộ Hình thư ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đời sống pháp luật đất nước vì trước đó và thời Đinh-Tiền Lê chưa có hệ thống pháp luật. Tuy nhiên thì đến nay bộ Hình thư bị thất truyền nên việc tiếp cận để nghiên cứu kĩ về luật thời Lý cũng gặp khó khăn.
Sau khi ban bố luật Hình thư tháng 11/1042 nhà Lý đã có những quy định bổ sung về việc chuộc tội cho những đối tượng là người già và trẻ em, người đau yếu, những thân thuộc của nhà vua bao gồm" những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến những thân thuộc của nhà vua để tang từ 9 tháng, 1 năm trở lên, phạm tội nhẹ thì cho chuộc, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này".
 Đối với Nhà nước quân chủ cũng như lợi ích của tầng lớp quý tộc quan liêu, luật pháp thời Lý tất nhiên luôn bảo vệ. Nhà Lý cũng ban hành những điều luật nghiêm ngặt bảo vệ nơi ở và việc làm của vua, triều đình như cung điện, khu vực hoàng thành... Năm 1150, vua Lý Anh Tông xuống chiếu" cấm bọn hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không cẩn thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế".
Đối với những ai có thái độ chống đối nhà vua hoặc triều đình, nhà Lý cũng có những hình phạt thích đáng, thậm chí sử tội chết. Vào thời Lý có một loại hình phạt rất thảm khốc giống thời cổ là đóng người vào đinh trên một tấm gỗ đem bêu ở chợ rồi mới đem ra pháp trường. Sử cũ ghi vào năm 1109, vua Lý xét án nghịch đảng Tô Hậu, Kỷ Sùng. Hai người này đều phải "lên ngựa gỗ" mà chết.
Đối với những người bị mắc tội phản quốc, hình phạt thời Lý cũng rất tàn khốc. Ngay từ khi chưa có luật Hình thư thì những người phản quốc cũng đã bị phạt rất thích đáng.
Đối với dân đinh - nguồn nhân lực bổ sung thường xuyên cho quân ngũ và tăng cường sức lao động cho sản xuất nông nghiệp nên những người này được nhà Lý bảo vệ. Trong luật Hình thư cũng có lệnh cấm việc mua bán hoàng nam. Điều này quy định rằng" ai bán hoàng nam ở dân gian làm nô bộc tư gia, nếu đã bán rồi thì phạt 100 trượng và thích 20 chữ vào mặt, chưa bán mà đã phục dịch người ta thì bị phạt 100 trượng và thích 10 chữ vào mặt. Kẻ tri tình mà cứ mua cũng phạm tội nhưng giảm xuống 1 bậc. Năm 1043, Lý Thái Tông còn ra lệnh phạt những người chứa giấu đại hoàng nam.
Đối với các quan lại làm việc thu thuế cho triều đình cũng được pháp luật nhà Lý quy định cụ thể và xử phạt những trường hợp sai phạm. Năm 1042, nhà Lý quy định về việc thu thuế của trăm họ" cho phép người thu, ngoài 10 phần phải nộp quan, được lấy thêm một phần, gọi là hoảnh đầu. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phủ dịch cho cả nhà trong 3 năm..."
 Ngoài ra pháp luật thời Lý cũng đã giành nhiều đặc quyền, đặc lợi cho tầng lớp quý tộc quan liêu từ nhà cửa, trang phục, đồ dùng...
Luật pháp thời Lý còn rất quan tâm tới sản xuất nông nghiệp. Để bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp, nhà Lý đã có luật định rất nghiêm ngặt. Tháng 2/1117, vua Lý định rõ lệnh"cấm giết trâu...kẻ mộ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp ( phục dịch trong quân...). Đối với chế độ tư hữu ruộng đất, nhà Lý cũng có điều luật bảo vệ. Năm 1142, Lý Anh Tông ban chiếu rằng" những người cầm ruộng thục trong vòng 20 năm  thì cho phép chuộc lại, việc tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm còn được tâu kiện; ai có ruộng đất bỏ hoang bị kẻ khác cày cấy trồng trọt trong vòng 1 năm thì được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm..."
Như vậy có thể thấy rằng pháp luật thời Lý ngoài việc đưa ra những quy định khắt khe về tội trạng, bảo vệ quyền lợi của bộ phận dân đinh, chế độ nông nghiệp thì pháp luật thời Lý củng cố chế độ đẳng cấp, bảo vệ quyền lợi của nhà nước quân chủ tập trung và của giai cấp quý tộc, quan liêu, bảo vệ tư hữu.
Tóm lại sự ra đời bộ luật Hình thư dưới triều Lý cũng đã phần nào chấm dứt lối cai trị theo kinh nghiệm và tập tục, lối xét xử tùy tiện như các triều đại thời kì trước đó... Từ đây bộ máy thống trị đã có đầy đủ những thiết chế chủ yếu. Tuy tính hiệu quả chưa cao và vẫn còn những hạn chế như một số quy định chế tài là những hình phạt hành hạ thể xác con người... thì đây cũng là một chế độ gần dân, thương dân, dựa vào dân và là một bước tiến mới trong luật pháp Việt Nam
Chính sách của nhà nước trong vấn đề ruộng đất
 Ruộng đất dưới thời Nhà Lý gồm hai hình thức sở hữu chính là sở hữu công và sở hữu tư. Ngoài ruộng đất công bao gồm ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và  ruộng đất công làng xã, Nhà Lý còn thừa nhận ruộng đất tư.
Ruộng đất đất công làng xã là loại ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nước nhưng do các làng xã quản lý. Những loại ruộng đất này được  gọi là quan điền hay quan điền bản xã thể hiện quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với vấn đề ruộng đất công làng xã. Nhà nước có quyền lấy ruộng đất công của làng xã để phục vụ cho công việc của triều đình. Nhà Lý ghi nhận nhiều trường hợp các vị vua tịch thu đất công làng xã để làm lăng mộ hoàng gia hoặc ban cho các thân vương, quý tộc với hình thức thực ấp hay đất phong. Ngoài ra, nghĩa vụ của người nông dân nhận đất công làng xã để sản xuất phải nộp tô thuế cho Nhà nước. Toàn thư ghi nhận nhiều sự kiện các vua Lý triều đại xá tô thuế ruộng cho nhân dân. Như vậy, Nhà nước triều Lý đã có những quy định về tô thuế ruộng, đây là nguồn thu nhập quan trọng của Nhà nước, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo sở hữu nhà nước theo kiểu quân chủ tập trung. Ngoài ra, còn có loại ruộng đất phong cho quý tộc, công thần và nhà chùa.
Đối với chế độ tư hữu ruộng đất, nhà Lý cũng có điều luật bảo vệ. Dựa vào những ghi chép về từ bia kí và các lệnh trong sử kí, ta có thể nhận thấy thời kì này ruộng tư đã tồn tại và được Nhà nước thừa nhận. Việc các tư nhân cúng ruộng hay hiện tượng mua bán, tranh giành ruộng đất tư chiếm hữu được ghi nhận đến nỗi nhà Lý phải đặt ra các điều luật bảo vệ chế độ sở hữu tư về ruộng đất, các quyền về thừa kế ruộng đất tư cũng được xác nhận. 
Nhìn chung dưới thời Lý bộ máy chính quyền cũng như pháp luật đã tiến bộ và hoàn thiện hơn so với thời kì trước. Sự phát triển về kinh tế trong đó có nông nghiệp-pháp luật thời Lý rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp là minh chứng cho sự tổ chức bộ máy chính quyền cai trị chặt chẽ cùng với nền pháp luật vừa nghiêm khắc nhưng cũng rất thương dân có hiệu quả. 
(còn tiếp...)

Nhận xét

Đăng nhận xét