Quan điểm viết sử của triều Nguyễn: Triều Nguyễn xem
trọng việc viết sử triều đại mình hơn là lịch sử dân tộc. Tờ dụ năm 1841 của
vua Thiệu Trị “Đời nào dấy lên, tất phải có sử chép của đời ấy, cốt để thuật lại
đức tốt của người trước mà lưu truyền lại cho đời sau. Nước nhà ta vâng mệnh trời,
mở vận nước, thánh thần truyền nối đã hơn 200 năm nay, các việc lễ, nhạc, hình,
chính, tùy thời mà thêm bớt…”[1].
Vua Tự Đức là người được xem là nổi trội nhất trên lĩnh vực sử học, vua đã hạ
quyết tâm phải thực hiện cho bằng được bộ sử viết đầy đủ về quá trình hình
thành và phát triển trong mấy ngàn năm lịch sử của lịch sử. Vua cho rằng nếu bộ
sử này không làm xong thì đây là một khuyết điểm của triều Nguyễn. Điều này thể
hiện rõ trong tờ dụ năm 1856 có ghi “Gần đây, việc học Quốc sử, chưa ra mệnh lệnh
bát phải gia công, cho nên học trò đọc sách hoặc làm văn chỉ biết có sử Trung
Quốc, ít người đoái hoài đến sử nước nhà!... Đạo học sở dĩ chưa được sáng tỏ,
nguyên nhân chẳng phải vì sử cũ chưa được đầy đủ đó sao?”[2].
![]() |
Mặt trước Quốc sử quán năm 1942. Nguồn: baodaklak.vn |
Triều Nguyễn cũng đưa ra các phương pháp viết sử theo
lối biên niên (các sự kiện lịch sử được
trình bày theo thứ tự thời gian, mặc dù có thể không liên quan nhau về nội
dung. Mối tương quan duy nhất giữa chúng là đã xảy ra trong cùng một năm, một
tháng, một ngày) và lối cương mục
(hình thức ghi chép lịch sử chia làm hai phần: cương và mục. Trong phần cương,
sử gia chỉ viết một vài câu ngắn gọn để giới thiệu nội dung chính của sự kiện lịch
sử; trong phần mục, sử gia trình bày một cách đầy đủ các chi tiết liên quan đến
sự kiện vừa nêu). Lịch sử phải được biên soạn làm sao để trở thành tín sử. Minh Mạng cho rằng “Nước có sử
là để tin ở đời nay, mà truyền lại cho đời sau… Tất cả các ngươi dựa vào sự cuộc
hãy nên cố gắng làm sao cho bút pháp được đúng đắn, vựng biên không thiếu sót,
tập thành tín sử một đời, ngõ hầu… lưu truyền mãi mãi”. Và cũng theo các vua Nguyễn,
muốn thành tín sử, thì các sử thần phải sưu tầm tư liệu, “khảo xét cho kỹ, đính
chính tin tường”, “làm thế nào cho nói không quá sự thực, mà việc có bằng chứng”
và “đã là Thực lục, thì các việc cứ thực mà chép, cho có trước sau thứ tự, mới
là tín sử”.
Riêng đối với sử thần, họ bị giới hạn trong khuôn khổ
của thời đại, bị chi phối bởi Nho giáo. “Do đó, khi viết sử, họ phải phục tùng
ý đồ của vua; đó là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, đằng sau những giáo điều ấy, họ
cũng đã thấm nhuần tinh thần vô úy và bất khuất của kẻ trượng phu truyền thống
Đông Phương…Là người viết sử, còn gọi là sử
bút, họ đã biết thế nào là khúc bút
(sử quan không viết thẳng sự thật vì muốn làm vừa lòng người trên), thế nào là trực bút (sửu thần căn cứ vào sự thật mà
viết một cách thẳng thắn), thế nào là lương
sử (nhà viết sử giỏi, có đầy đủ lương tâm và trách nhiệm), và họ cũng biết
đến các tấm gương sử học sáng ngời qua các câu chuyện bất hủ… Họ áp dụng những
biện pháp chế tài do triều đình đặt ra đối với những hành vi độc đoán có hại của
các vua Nguyễn. Do đó, qua ngòi bút của mình, họ đã thành công phần nào trong
việc răn đe các đấng quân vương đương thời”[3].
Vua Tự Đức cũng nói “Nay ta chép sự thật, đều là những việc chỉ một mình ta biết
mà mọi người không được biết, để gọi là chút bày tỏ chí ta với thiên hạ. Còn những
công việc mà ta đã làm hay hoặc dở thế nào, thì có ngòi bút của các nhà viết sử,
ta chẳng nói thêm thừa”[4].
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng, các sử quan tuy bị lệ
thuộc về vua, vào tư tưởng trung quân nhưng khi viết sử, họ cũng đã có những tư
tưởng riêng, độc lập, tức là ý chủ quan. Các quan điểm viết sử của các vua triều
Nguyễn cũng cho thấy rằng, họ cũng đã đề cao nền sử học nước nhà, đề cao vai
trò của quốc sử, nhưng quan điểm đề cao triều đại mình, đánh giá sai các vai
trò của các triều đại trước, đề cao tính chính thống của triều đại này mà miệt
thị các triều đại soán vị, và dường như không có quan điểm làm sáng tỏ đời sống
của các dân tộc trong quá khứ. Chính những quan điểm như trên, quốc sử quán – một
cơ quan viết sử đã ra đời.
Thời Gia Long, có cơ quan viết sử gọi là Sử cục, nhưng
không có trụ sở chính. Nhưng nhiệm vụ chưa được tiến hành gì. Đến khi Minh Mạng
lên ngôi, xuống dụ “Trẫm muốn dựng sử quán, sai các bậc nho thân soạn tập bộ Quốc
sử Thực lục, để nêu lên những công cuộc xây dựng nền tảng thịnh vượng để cho đời
sau bắt chước vậy”. Quốc sử quán được xây dựng trong một tháng là xong, qua nhiều
năm, nó được bổ sung và xây dựng thêm một số phòng để lưu giữ sử liệu. Địa điểm
của Quốc Sử Quán xưa trong khuôn viên trường Trung Học Nguyễn Huệ ngày nay, tại
đây, còn lại cái giếng xưa, di tích cuối cùng của Quốc Sử Quán. Con đường chạy
ngang trước mặt nó là đường Ngô Sĩ Liên. Quốc sử quán được xây dựng xong vào
tháng 8 năm 1820, sau đó vua Minh Mạng cho xây dựng thêm hai dãy nhà hai bên
tòa nhà chính để các quan làm việc và dựng hai tấm bia khuynh cái hạ mã ở hai bên trước cổng chính, Đến thời Thiệu Trị,
xây dựng thêm hai tòa nhà phụ nữa ở hai bên tòa nhà chính: tòa bên trái gọi là nhà công thự, dành cho các Toản tu, và
tòa bên phải gọi là nhà giải vũ đài,
dành cho các biên tu. Đến năm 1857, thời Tự Đức do số lượng công trình được
biên soạn và khắc in xong đã khá nhiều, triều đình cho làm thêm nhà mộc bản gọi
là Tàng bản đường, ở sau lưng tòa nhà
chính. Đến năm 1884, triều đình còn cho dựng thêm một dãy nhà 7 gian 2 chái,
phía đông tòa nhà chính, để là nơi biên soạn Thực lục chính biên để tứ kỷ.
Chúng ta có thể nhận thấy được rằng, Quốc sử quán có
hai nhiệm vụ mang tính chất quan trọng, có mối quan hệ mặt thiết với nhau.
Thứ nhất, sưu tầm, chỉnh lí và khắc in rất nhiều thư tịch cổ.
“Tất cả các tài liệu quý, nhất là tài liệu không còn nguyên vẹn hay đã qua nhiều
lần chép tay, nên bị “tam sao thất bản” đều được các bậc đại khoa Nho học cẩn
trọng xác minh và chỉnh lý một cách nghiêm túc, độ tin cậy vì thế mà được nâng
cao. Nhìn chung các bản khắc in do nhà Nguyễn thực hiện đều rất đẹp, chữ viết
chân phượng và rõ ràng. Đội ngũ những người viết chữ và thợ khắc in được tuyển
chọn rất kĩ lưỡng. Giấu được dùng để in sách cũng là những loại giấy tốt nhất
lúc bấy giờ”[5]. Như Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư của triều Hậu Lê, một quyển sách được sử dụng phổ biến.
Thứ hai, tổ chức biên soạn nhiều công trình có giá trị, nó được
chia thành ba nhóm công việc như sau: biên soạn quốc sử; biên soạn các công
trình về địa lí và địa lí học lịch sử; biên soạn soạn công trình giới thiệu tóm
tắt lí lich cuộc đời và sự nghiệp các nhân vật lịch sử thời Nguyễn. Một số công
trình tiêu biểu: Việt Sử Thông giám cương mục (52 quyển), viết lại và viết tiếp
Đại Việt Sử Kí toàn thư; Đại Nam Thực lục (453 quyển), chia thành hai phần: phần
thứ nhất là Tiền biên giới thiệu các sự kiện và vấn đề theo tuần tự thời gian
diễn ra dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn, phần thứ hai là Chính biên giới
thiệu các sự kiện và vấn đề diễn ra theo tuần tự thời gian nhưng trong thời các
Hoàng đế triều Nguyễn. Đại Nam Nhất Thống chí; Đại Nam Nhất thống toàn đồ, Đại
Nam Liệt truyện (87 quyển).
Như vậy, trên lĩnh vực sử học, triều Nguyễn đã quan
tâm đến việc viết sử, quan tâm đến việc thành lập cơ quan sử quán để làm nhiệm
vụ sưu tầm, chỉnh lí, khắc in thư tịch cổ; đồng thời biên soạn những công trình
lịch sử mang tính hiện thực, mô phỏng lại thời đại, đều này góp phần trong tư
liệu nghiên cứu cho các học giả về sau. Ngoài các công trình của Quốc sử quán,
sử học cũng xuất hiện những công trình khác nhau đều mang tính chất hiện thực.
Mộc bản và Châu bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới
vào các năm 2009 và năm 2014. Qua Mộc bản triều Nguyễn, mỗi trang tài liệu là một
câu chuyện lịch sử về Quốc hiệu của nước ta qua các thời kỳ. Từ khởi thủy đến
năm 1945, Việt Nam trải qua 9 lần thay đổi Quốc hiệu, từ Xích Quỷ, Văn Lang, Âu
Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu đến Đại Nam, Việt Nam. Tại triển
lãm, châu bản được giới thiệu tập trung với chủ đề về giáo dục và khoa cử triều
Nguyễn. Nội dung giáo dục và khoa cử tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ bộ máy hành chính nhà nước. Các văn bản phản ánh khá sinh động về nhiều
vấn đề trong chính sách giáo dục, đào tạo, tuyển cử của triều Nguyễn trong đào
tạo, sử dụng nhân tài.
Trần Hoàng
(Trích từ tiểu luận Triều Nguyễn với vấn đề phát triển văn hóa (1802 - 1884)
[1] Quốc
sử quán triều Nguyễn; (viện sử học dịch). (2007). Đại Nam Thực lục, tập 6, 1.
Hà Nội: NXB. Giáo dục.
[2] Quốc
sử quán triều Nguyễn; (viện sử học dịch). (2007). Đại Nam Thực lục, tập 7, sđd.
[3] TS.
Phan Thuận An. (2000). Quốc sử quán triều Nguyễn và giá trị của nó trong nền học
thuật Việt Nam. Trong Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn QG (Vietnam), Việt
Nam học - Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất (trang 463-473`). Hà Nội: NXB. Đại
học quốc gia, tr.465.
[5]
Nguyễn Khắc Thuần. (2007), sđd,
tr.1009.
Nhận xét
Đăng nhận xét