Tử Cấm Thành dưới thời nhà Thanh
Thực hiện mưu đồ xâm lấn đất đai Đại Việt, nhà Thanh
đã sử dụng nhiều thủ đoạn và nhiều lực lượng để tiến hành lấn chiếm vùng đất Tụ
Long.
Năm 1724, Tổng thôi Dương Gia Công hiến kế cho Tổng
đốc Vân Nam Cao Kỳ Trác sang chiếm mỏ chì ở thôn Ca và mỏ đồng ở thôn Bán Gia,
thuộc xã Tụ Long. Họ công khai nói rằng các vùng đất trên là đất của Trung Quốc
bị thổ quan Đại Việt xâm chiếm. Trong công văn yêu sách giành lấy vùng đất đó,
họ viết: làng Ma Tu, xã Tụ Long là trại Mã Đô Giát, làng Tà Lộ là trại Bố Đô,
làng Phù Không là trại A Không, làng Phù Ni là trại Bạch Nê, làng Nhĩ Hô là trại
Ngưu Hô Hắc, thuộc Trung Quốc (làng là đơn vị hành chính của ĐạI Việt, trại là
đơn vị hành chính của Trung Quốc - TG) và ba con khe chảy trong đất Tụ Long là
sông Đổ Chú.
Đất Tụ Long, tiếp cận với phủ Khai Hóa, được xác định bằng hai bia đá cắm bên bờ sông Đổ Chú.
Nội dung của công văn trên cho thấy thủ đoạn gian
trá của nhà Thanh là xóa bỏ tên làng Đại Việt và thay bằng tên trại của Trung
Quốc, lấy con khe không hề được xác định là đường biên giới tự nhiên thay cho
sông Đổ Chú vốn là đường biên giới được hai quốc gia thừa nhận từ lâu. Bằng các
đó, họ tưởng rằng có thể dễ dàng biến vùng Tụ Long thành lãnh thổ Trung Quốc.
Trước hành động gian trá này của phía nhà Thanh,
viên trấn thủ Tuyên Quang đã làm tờ khai gửi lên Triều đình nước ta trình bày
rõ hiện trạng của vùng đất Tụ Long và các con đường đi lại trong vùng.
Tờ khai đã mô tả rất tỉ mỉ vị trí của làng Ma Tu, Tà
Lộ, Phù Không, Phù Ni, Nhĩ Hô mà nhà Thanh nói là đất của họ’ nhưng thực chất đều
là lãnh thổ của Đại Việt. Đặc biệt là các con đường từ các thôn làng của xã Tụ
Long đến song Đổ Chú là những khoảng cách khá xa. Độ đường đó được xác định như
sau: “Con đường ở các thôn đến đầu địa giơi, thì từ núi Mã Yên (thuộc làng Kỵ
Mã, xã Tụ Long – TG) QUA NÚI Khâu Mô, núi Thự Nhà, núi Đổ Chú đến sông Đổ Chú,
đường đi một giờ; từ xưởng Chì qua núi Khâu Mô đến sống Đổ Chú, đường đi hai khắc;
từ thôn Tà Lộ qua núi Ca đến sông Đổ Chú, đường đi một giờ; từ thôn Ma Tu qua
núi U Thy đến sông Đổ Chú đường đi hai khắc; từ thôn Phù Không qua núi Kim, núi
Thác Ư đến sông Đổ Chú, đường đi nửa ngày; từ thôn Phù Ni qua núi thôn Tòng Lư
đến sông Đổ Chú, đường đi một giờ, từ thôn Nhĩ Hồ qua núi Đổ Chú đến sông Đổ
Chú, đường đi nửa khắc.
Yêu sách nói trên về lãnh thổ của nhà Thanh bị Triều
đình Lê - Trịnh bác bỏ. Đương nhiên, nhà Thanh không dừng lại ở đó, tham vọng lấn
chiếm đất đai đã đẩy họ đi tới những hoạt động quyết liệt hơn. Giới quan chức đứng
đầu tỉnh Vân Nam và phủ Khai Hóa đã sử dụng vũ lực ngang ngược chiếm đoạt vùng
Tụ Long. Bố chính Vân Nam đưa lính đến Tụ Ca khai mỏ đồng rồi chuyển quặng về
Trung Quốc. Đồng thời, tổng trấn Khai Hóa còn điều động nhân lực tới Hà Can lập
cửa ải của Trung Quốc ở núi Mã Yên, một ngọn núi thuộc làng Kỵ Mã, thuộc xã Tụ
Long, cách ra xa địa phận Trung Quốc;và y cho dựng mốc gỗ địa giới tai bờ khe
Tham Thổ.
Hành động trên của nhà Thanh xâm phạm nghiêm trọng
chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt. Để đối phó và ngăn chặn những hành động cực kỳ
nghiêm trọng đó. Chúa Trịnh ra lệnh cho Trịnh Kính, Trấn thủ Tuyên Quang đều động
quân lính tới Tụ Long chống giữ. Trịnh Kính đưa quân đến đóng giữ tại thôn Phú
Lung và kiên quyết kháng cự lại sự lấn chiếm lãnh thổ của Đại Việt do giới cầm
quyền nhà Thanh tiến hành. Sứ phản kháng kiên quyết của triều đình Lê – Trịnh
và sự đối phó kịp thời, mạnh mẽ của quan chức, binh lính Đại Việt ở xứ Tuyên
Quang và của cư dân địa phương buộc viên Tổng trấn Khai Hóa họ Phùng phải rút
quân về. Song đó chỉ là sự rút lui tạm thời của họ mà thôi. Lời của viên tổng
trấn họ Phùng nói với PHụ đạo Hoàng Văn Chi đã bộc lộ rõ tham vọng về lãnh thổ
đại Việt nhà Thanh: “… cứ tra cứu trong địa đồ thì từ phủ Khai Hóa trở sang
phía nam tới sông Đổ Chú phải 240 dặm, chứ không phải chỉ có ở chỗ này” (tức Tụ
Long - TG). Tiếp đó, y còn nói rằng lãnh thổ của Trung Quốc phải đo đến trên
sông Ninh Biên nữa.
Không chịu dừng lại ở mức độ này, giới quan chức phủ
Khai Hóa và tỉnh Vân Nam làm tờ tâu về việc trên gửi lên Triều đình nhà Thanh
và thỉnh cầu Triều đình thi hành những biện pháp hữu hiệu, buộc Triều đình Lê –
Trịnh phải chấp nhận yêu sách về lãnh thổ của họ. Tờ tâu đó, do hông Dục
Tuân, Tổng đốc Lưỡng Quảng chuyển đệ.
Mặc dù bị Triều đình Lê - Trịnh phản kháng, nhà
Thanh vẫn khăng khăng đòi chiếm đoạt vùng đất Tụ Long. Họ ngang ngược đòi quan
lính Đại Việt phải rút khỏi vùng đất này để họ chiếm lĩnh. Năm 1725, Cao Kỳ
Trác chuyển tới triều đình Việt Nam những đòi hỏi phi lý, trịch thượng đó: “Trịnh
Kính đem quân đến hống hách, nói năng bất tốn, mong dụ bảo cho rút quân về
ngay”. Đồng thời, ông ta đưa ra những lý lẽ thiếu căn cứ về mốc giới giữa hai
nước Việt - Trung, theo đó đòi nước ta phải cắt một phần lãnh thổ cho Trung Quốc:
“Con sông dưới núi xưởng Chì không phải là sông Đổ Chú, qua Đô Long hơn 100 dặm
nữa có một con sông lớn gọi là sông Ninh Biền, chỗ ấy tức trong địa đồ ghi là
sông Đổ Chú đây, cần phải lập giới mốc ở đây”. Cụ thể hơn, nhà Thanh cho rằng
vào cuối đời nhà Minh, Trung Quốc bị mất 240 dặm và cho đến lsc bấy giờ không
còn tra cứu được nữa, đến đời nhà Thanh, Trung Quốc lại bị mất thêm 160 dặm nữa.
Vì thế: “Vâng Chỉ dụ cho lập giới mốc ở dưới núi xưởng Chì. Ngoài ra miễn tra cứu
kỹ”. Nhà Thanh còn đưa quân đến đóng tại thôn Tà Lộ nhằm khống chế cả vùng Tụ
Long.
Trước sự chiếm đoạt ào ạt của nhà Thanh tại vùng đất
Tụ Long, chúa Trịnh Cương sai làm quốc thư phúc đáp, biện bạch, phản bác lại những
điều phi lý do nhà Thanh nêu ra, vì nó hoàn toàn xa lạ với hiện trạng biên giới
đã được hai quốc gia hoạch định từ lâu.
Trước những bằng chứng và những lý lẽ xác đáng đó,
nhà Thanh không thể tự bào chữa cho những hành động bành trướng lãnh thổ của họ
được nên vua Ung Chính nhà Thanh phải gửi Sắc chỉ sang nước ta, trong đó có đoạn
viết: “Đã hạ lệnh cho viên Tổng đốc rút nhân viên đóng ở các xứ thôn Tà Lộ về,
còn việc lập giới mốc sau sẽ bàn riêng, quốc vương nên bình tĩnh đợi sẽ phân xử”.
Tổng đốc Cao Kỳ Trác cũng thông báo chủ trương của nhà Thanh cho Triều đình Việt
Nam biết là hai bên phải cử quan chức hội bàn về biên giới. Đó là thủ đoạn dây
dưa của nhà Thanh hòng thực hiện kế hòa hoãn tạm thời của họ. Chúa Trịnh Can
bèn sai quan phúc đáp lại bằng lời lẽ tranh biện xác đáng: “Thổ địa, nhân dân ở
một dải sông Đổ Chú nguyên là ở trong địa giới nước tôi, thế mà ngày nay lại
thêm cái tiếng “ban cho”, thì nước tôi đâu dám tham nhận như thế? Còn như Khai
Hóa là địa đầu ngoài biên giới Vân Nam, tức là nha môn của ba trưởng quan Giáo
Hóa, Vương Lộng và An Nam từ triều nhà Minh. Hồi đầu Thiên Triều (tức Triều
đình nhà Thanh lúc ấy - TG) cũng theo như cũ, đến năm Khang Hy thứ 6 (1667) mới
thăng làm phủ, đặt quan cai trị, không rõ vào năm Khang Hy thứ 22 (1682), đầu mục
người Thổ của bản quốc vì cớ gì mà dám xâm lấn vào nội địa?” (tức đất Trung Quốc
- TG). Giới quan chức nhà Thanh phải thừa nhận những điều trình bày trên của nước
ta là có bằng cứ, song họ vẫn không chịu chấp nhận. Mặt khác, họ cũng không chịu
thừa nhận những chứng cớ mà họ đưa ra cách xử lý là không đúng nên họ đã đề xuất
ý kiến là cả hai bên cử ngay một số quan chức đến vùng Tụ Long ở chỗ đất 40 dặm
kể từ con ngòi nhỏ ở núi xưởng Chì trở vào và vùng Mã Bạc trở ra mà họ lấn chiếm
để cùng khám xét địa hình, xác lập mốc địa giới.
Chân dung chúa Trịnh Cương
Năm 1726, chúa Trịnh Cương đã hạ lệnh cho tiến sĩ Hồ
Phi Tích và Thám hoa Vũ Công Tế đến vùng Tụ Long cùng với han Doãn Mẫn, Tri phủ
Quảng Nam (thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) khém xét địa giới. Cuộc tranh biện giữa hai bên diễn ra gay gắt.
Nhà Thanh cố tình biện bác để giành lấy vùng đất Tụ Long. Đến năm Ung Chính thứ
8 (1731), viên quan tỉnh Vân Nam của nhà Thanh sai người lập bia mốc giới ở núi
xưởng Chì thuộc Tụ Long và đắp lũy, lập đồn ải. Chúa Trịnh kiên quyết phản
kháng hành động đó. Cuối cùng nhà Thanh phải trả 40 dặm đất vùng Tụ Long cho nước
ta sau khi một phái bộ do chúa Trịnh cử đến Tụ Long bao gồm tiến sĩ Nguyễn Huy
Nhận và tiến sĩ Nguyễn Công Thái cùng với các quan chức nhà Thanh khám xét thực
địa và tranh biện, Ghi lại sự kiện ngoại giao quan trọng đó, Ngô Cao Lăng , tác
giả Lịch triều tạp kỷ đã viết: “Bây giờ quan nhà Thanh cho chia sông Đổ Chú làm
ranh giới, nhưng thổ quan phủ Khai Hóa chỉ láo vào sông Đổ Chú giả để chực chặn
lấy các sách ở Bảo Sơn. Bọn Công Thái xong pha lam chướng, vượt nơi hiểm trỏ,
đi qua các mỏ đồng, mỏ bạc, nhận ra được chỗ sông Đổ Chú thực, bèn cùng với
quan nhà Thanh, hai bên tự đi báo lại, tranh biện và bẻ lý mãi, rồi lập đồng trụ
làm giới mốc. Thế là việc cương giới mói được ổn định. Mỏ đồng Tụ Long lại thuộc
về ta”.
Đó cũng là kết quả đấu tranh ngoại giao với giới
quan chức nhà Thanh theo phương châm mà chúa Trịnh Cương căn dặn các viên quan
được cử đi đàm phán thực hiện:
Nghĩa,
lợi, ổn tường trong vấn đáp,
Kinh,
quyển, nhẩm thấu ấy quan phòng.
(Trong đàm phán phải tinh tường, giữ được nghĩa và lợi
phải thấu hiểu biên phòng là việc quan trọng để giữ nguyên tắcà quyền biến).
Sau khi giành lại được Tụ Long, Triều đình Lê - Trịnh
đã tiến hành khai thác mỏ đồng ở đây với quy mô rộng lớn hơn, và xây dựng vùng
này trở thành địa bàn hoạt động kinh tế khá nhộn nhịp. Ngoài các xưởng khai
khoáng, Tụ Long còn có chợ, phố xá thu hút người từ nhiều nơi tới đây buôn bán.
Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, mỗi năm, nấu được 45 vạn cân đồng, cứ 100 cân đồng
trị giá 9 lạng bạc.
Tiếc rằng đến cuối thế kỉ XIX, khi tiến hành hoạch định
biên giới Việt - Trung thực dân Pháp đã cắt cho nhà Thanh vùng đất Tụ Long này
của nước ta để nhà Thanh cho chúng được mở đường vào Hoa Nam buôn bán với
Trung Quốc.
Thắng lợi của công cuộc đấu tranh ngoại giao dưới thời
Lê - Trịnh để giành vùng đất Tụ Long đã khẳng định những giá trị lớn lao của nền
ngoại giao Đại Việt trong sự nghiệp bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ quốc gia.
Nhà Trịnh, người trực tiếp điều hành cuộc đấu tranh đó, đã thể hiện tinh thần tự
tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền đối với việc bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ quốc gia và biết sử dụng cả lực lượng chính quyền địa phương; chọn cử
những viên quan văn võ vừa có tài năng, vừa có trách nhiệm cao khi thi hành nhiệm
vụ của mình; đã biết vận dụng nhiều biện pháp đấu tranh bằng lý lẽ, bằng thực lực
quân sự với mức độ cần thiết, lúc cứng rắn, lúc mềm dẻo với Triều đình nhà
Thanh, với giới quan chức Trung Quốc ở địa phương; và cuối cùng đã giành được
thắng lợi. Đó cũng là kinh nghiệm quý bổ sung vào kho tàng tri thức của nền ngoại
giao Việt Nam.
Nguồn: GS.
TS. Trịnh Nhu (2007), Mấy vấn đề lịch sử
Việt Nam - tái hiện và suy ngẫm, NXB.CTQG, HN, tr.92-98.
Trần Hoàng (sưu tầm)
Nhận xét
Đăng nhận xét