PHẦN
1: TÊN GỌI - CƯƠNG VỰC
Tỉnh Biên Hòa trong bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh giai đoạn
1832-1862
Về tên gọi “Biên Hòa”
có thể lý giải như sau: năm 1808, vua Gia Long đổi tên dinh Trấn Biên
thành Biên Hòa bằng cách ghép chữ Biên từ tên cũ “Trấn Biên” (trấn
của biên cương) với Hòa trong chữ “hòa bình” mà thành. Biên Hòa ngày
đó là cả một vùng rộng lớn của xứ Đồng Nai. Thời gian miền Nam bị
Pháp thuộc Biên Hòa được giữ là tên của một trong số 20 tỉnh. Từ
1954 đến 1975, Biên Hòa cũng là tên của một tỉnh miền Đông. Từ 1975
đến nay, Biên Hòa là thành phố trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Có thể
hiểu nôm na rằng Biên Hòa là “hòa bình ở vùng biên giới”.[1]
Từ “Biên” trong “Biên
Hòa” đã xuất hiện từ khi Nguyễn Hữu Cảnh vào đây kinh lược sứ Đồng Nai
này. Thuở đó, trấn Biên Hòa có tên là dinh Trấn Biên (tức là ải trấn địa cầu
Biên giới). Điều đó có thể thấy, vào thời điểm năm 1698, vùng đất này chưa phải
là vùng dất thuộc lãnh thổ Đại Việt, bởi lẽ chưa có cơ sở hành chính, chưa có
người quản lí, chưa được ghi vào bản đồ Đại Việt. Khi xưa vùng đất này là thuộc
về Phù Nam, sau Chân Lạp thôn tính (nơi đây còn gọi là Thủy Chân Lạp). Mãi đến
thế kỉ XVII, nhiều đợt di dân người Việt và người Hoa mới xuất hiện và nhiều
đợt di dân mạnh mẽ vào vùng đất này hơn so với các thế kỉ trước. Vì khi ấy chúa
Nguyễn Đàng Trong đang tiến hành mở rộng ảnh hưởng về phương nam, đưa đất nước
Đại Việt vươn xa về cõi phương nam. Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyễn đã xuất
hiện các cuộc di dân. Tuy nhiên, ở vùng đất này hầu như chưa được kiểm soát bởi
một chính quyền nào, bởi lẽ trên danh nghĩa là thuộc Chân Lạp, nhưng sự quản lí
rất lỏng lẻo, không một cơ sở hành chính rõ ràng. Lưu dân và dân bản địa ở khắp
nơi, tự phân định nơi ở, không có sự kiểm soát. Cho nên, khi Nguyễn Hữu Cảnh
vào đây kinh lược đã chính thức thiết lập cơ sở hành chính, khẳng định chủ
quyền, quyền quản lí của chúa Nguyễn trên mảnh đất này. Do đó, với tình hình
lúc bấy giờ là vùng đất mới xác lập nên được gọi là “Trấn Biên”. Và
đến thời Gia Long, đã lấy chữ “Biên” kết hợp với chữ “Hòa” thành
ra “Biên Hòa”.
Chúng ta thấy rằng, với sự
kiện năm 1808 Gia Long đổi dinh Trấn Biên thành trấn Biên Hòa thì từ “Biên
Hòa” dã xuất hiện lần đầu tiên vào thời Gia Long năm 1808. Là năm đất
nước vừa thống nhất sau hơn 200 năm loạn lạc chia cắt. Sự kiện chia cắt diễn ra
từ thế kỉ XVI, khi nhà Lê đang trên đà suy vong và dẫn đến hiện tượng cát cứ
diễn ra ở khắp nơi. Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã tiếm ngôi nhà Lê thì sự nổi dậy
của các thế lực chống nhà Mạc lại càng nổ ra mạnh mẽ hơn. Năm 1533, Nguyễn Kim,
một cựu thần nhà Lê đã dấy binh khôi phục sự nghiệp nhà Lê, lập vua Lê Trang
Tông làm cờ hiệu quy tụ những người còn có tâm trí hướng về nhà Lê (sử gọi là
Lê Trung Hưng). Cuộc chiến giữa họ Lê và họ Mạc diễn ra trong suốt hơn 60 năm,
trong lịch sử người ta gọi đó là cuộc chiến tranh Nam Bắc triều. Đến năm 1592,
nhà Mạc bị đánh bại phải luôn về Cao Bằng, Thăng Long dã thuộc về nhà Lê. Nhưng
cũng chính trong nhà Lê cũng đã xuất hiện những mâu thuẫn giữa họ Trịnh (Trịnh
Kiêm) và họ Nguyễn (Nguyễn Hoàng). Cuộc chiến tranh của hai họ diễn ra gần 50
năm sau đó đã đưa đất nước Đại Việt rơi vào cảnh chia ly hơn 200 năm. Vì tình
hình đất nước biến động mạnh mẽ, mâu thuẫn xã hội ngày càng trầm trọng, các
phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra mạnh mẽ ở thế kỉ XVIII. Phong trào nông
dân Tây Sơn là một phong trào phát triển mạnh mẽ từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài,
tiêu diệt các thế lực họ Nguyễn, họ Trịnh và họ Lê để thiết lập một nền độc lập
trên phạm vi đất nước. Nhưng nội bộ Tây Sơn cũng xuất hiện mâu thuẫn, mô hình
tổ chức chính quyền không thống nhất từ trung ương đến địa phương, bên ngoài
thì Nguyễn Ánh đã xây dựng lực lượng dựng lại cơ đồ. Mãi đến năm 1802, Nguyễn
Ánh diệt nhà Tây Sơn, lên ngôi Gia Long thì đất nước mới thật sự thống nhất.
Vùng đất Nam Bộ là chiến
trường giữa Nguyễn Ánh với Nguyễn Huệ và Tây Sơn trong hơn 20 năm kể từ khi
chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào đất Gia Định khoảng năm 1774. “Suốt thời gian
20 năm trường, binh Tây Sơn tràn vào chiếm Nam Hà và đất Đồng Nai. Quân chúa
Nguyễn Phúc Thuần ngăn chống, hai bên giằng co nhau, khi thắng khi thối, Các
thành, dinh, trấn bị mất hoặc được thu phục, lúc về bên này, lúc thuộc bên nọ,
tạo tâm lý hoang mang cho nhân dân đang gặp nạn binh đao. Lúc bấy giờ là vào
năm Bính Ngọ (1774). Tỉnh nhà, ở nhằm địa thế hiểm yếu (có sông rạch, hố sâu,
đồi cao, đồng bằng) và trên con đường tiến lui binh cơ đồ trận, nên bị ảnh
hưởng rất nhiều”[2].
Kể từ đó cho đến năm
1787, nơi đây luôn luôn có sự thay đổi lực lượng chiếm đóng, khi thành Nguyễn
Ánh khi thành Nguyễn Lữ (người được phân công trấn giữ miền đất này). Đến năm
1788, Nguyễn Ấnh chính thức chiếm dóng vùng đất này cho tới khi thống nhất đất
nước. Cho nên, chúng ta có thể thấy rằng vùng đất Nam Bộ là căn cứ hậu phương
vững chắc của Nguyễn Ánh, là bàn đạp cho lực lượng tiến ra bắc. Tuy có nhiều
lúc thất bại nhưng cuối cùng Nguyễn Ánh (sau là Gia Long) cũng đã giữ vững mảnh
đất này. Chính vì vậy, mà chúng ta thấy rằng từ “Hòa” trong “Biên
Hòa” là chỉ về hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh liên miên.
“Vương cho đặt hiệu danh là Biên Hòa, với ý nghĩa một doanh trấn ở biên cương
trước bị loạn lạc, nay được bình định và hưởng an lạc thái hòa”[3]. Và chúng ta cũng có thể hiểu “Biên Hòa” là
tỉnh ở nơi bờ cõi không xung đột, đó là ước vọng của người xưa.
Tương ứng với từng thời kì
khác nhau, Biên Hòa dùng để chỉ một vùng đất cụ thể, cũng như cương vực, địa
giới của nó. Từ “Biên Hòa” ban đầu dùng để chỉ dinh Trấn Biên
thời chúa Nguyễn. Cho nên cương vực của nó tương đương với dinh Trấn Biên.
“Vùng đất Đồng Nai có tên gọi là dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Long, phủ Gia
Định”[4]. Tức là vùng phần thuộc huyện Phước Long khi
đó, đất tỉnh Đồng Nai ngày nay. Đến năm 1808, triều Nguyễn đổi phủ Gia Định ra
Gia Định thành, các dinh (nơi đóng quân) đổi ra trấn, đơn vị hành chính có tính
quân quản cấp tỉnh. Như vậy dinh Trấn Biên đổi ra trấn Biên Hòa, nó có phạm vi
rộng hơn dinh Trấn Biên, bao gồm cả huyện Phước Long cũ. Huyện Phước Long được
nâng lên thành phủ, với phạm vi như cũ bao gồm 4 huyện được nâng lên từ tổng:
Phước Chánh (Tân Chánh cũ). Bình An, Long Thành, Phước An.
Đến năm 1832, trong cuộc
cải cách hành chính của vua Minh Mạng, trấn Biên Hòa đổi thành tỉnh Biên Hòa.
“Từ đông đến tây cách 542 dặm rưỡi, từ bắc đến nam cách 587 dặm rưỡi, phía đông
giáp núi Thàn Mẫu, lập trạm Thuận Biên, chạy dài ra phía bắc đều là các động
của sơn man, phía nam giáp trấn Phiên An, trên từ suối Bằng Bột, qua Đức giang
đến Bình Giang bẻ quanh về ngã ba nhà Bè, thẳng xuống vùng biển Cần Giờ qua
Vũng Tàu qua Thất Sơn lấy một giải sông dài làm giới hạn. Phần đất ở bờ phía
bắc sông là địa giới trấn Biên Hòa, phía đông giáp biển, phía tây đến sơn
man”(Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức). Qua nhiều năm thay đổi, đến
năm 1851, tỉnh Biên Hòa gồm hai phủ: phủ Phước Long (Phước Chánh, Bình An) và
phủ Phước Tuy (Lomg Thành, Phước An).
Khi Pháp sang xâm lược và
từng bước thôn tính vùng đất Đông Nam Kì, tỉnh Biên Hòa bị chia thành các tỉnh
khác nhau, trong đó phủ Phước Long được nâng thành tỉnh Biên Hòa. Như vậy, Biên
Hòa dùng để chỉ tỉnh với phạm vị phủ Phước Long cũ. Sau đó trải qua thời gian,
tên gọi của tỉnh Biên Hòa luôn thay đổi và địa giới của nó cũng thay đổi theo.
Đến năm 1899, tỉnh Biên Hòa chính thức thành lập bao gồm huyện Phước Chánh phủ
Phước Long cũ, các tổng của huyện Long Thành phủ Phước Tuy cũ (tổng Long
Vĩnh Thượng, Thành Tuy Hạ, phía tay trái sông Đồng Nai thuộc tổng Long Vĩnh Hạ,
các tổng người thiểu số). “Tỉnh Biên Hòa ở về phía Đông xứ Nam Kỳ, phía Bắc
giáp tỉnh Thủ Dầu Một, phía Đông giáp tỉnh Bà Rịa, phía Nam giáp tỉnh Gia Định,
phía Tây giáp tỉnh Thủ Dầu Một. Diện tích khoảng 11.045 km2, cách
Sài Gòn 24km467”[5]. Và phạm vi của tỉnh Biên Hòa
không thay đổi cho đến tận cuối năm 1945.
Sau cách mạng tháng tám năm
1945, khi Pháp sang xâm lược trở lại thì vẫn giữ cơ cấu cũ, bên cạnh đó chính
quyền cách mạng bắt đầu xây dựng cơ cấu hành chính. Biên Hòa khi đó chỉ một thị
xã, đó là thị xã Biên Hòa. ThỊ xã Biên Hòa là một phần của quận Châu Thành cũ
(quận này được thành lập vào năm 1928 gồm Chánh Mỹ Thượng, Phước Vinh Thượng và
Phước Vinh Trung. So với trước, Biên Hòa ở đây không bao gồm địa giới huyện
Long Thành cũ, chỉ một nửa huyện Phước Chánh cũ. Từ quận này, thị xã Biên Hòa
được thành lập, ngang hàng với cấp huyện đến tận năm 1951, bao gồm xã Bình
Trước quận Châu Thành, Tam Hiệp, Hiệp Hóa, Tân Thành… là vùng đất tổng Phước
Vinh Thượng. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, từ Biên Hòa không còn được sử dụng
trong cơ cấu hành chính của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng từ Biên Hòa vẫn được còn
sử dụng trong lực lượng cách mạng (Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam). Tuy nhiên, cụm từ Biên Hòa lần này là chỉ hai tỉnh khác nhau: Tỉnh Biên
Hòa U1 (bao gồm thị xã Biên Hòa và được nâng lên nhiều huyện như Vĩnh Cửu,
Trảng Bom) và tỉnh Biên Hòa nông thôn (Long Thành, Nhơn Trạch). Đến năm 1973,
thị xã Biên Hòa được nâng lên thành thành phố Biên Hòa và cùng với tỉnh Biên
Hòa nông thôn là hai đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Từ năm 1975, từ “Biên
Hòa” dùng để chỉ riêng cho thành phố Biên Hòa ngày nay, tỉnh Biên Hòa
nông thôn sau đó được giải thể thành các huyện trực thuộc tỉnh Đồng Nai bây
giờ. Địa giới thành phố Biên Hòa qua nhiều thay dổi cho đến nay bao gồm 23
phường, 7 xã. Thành phố Biên Hòa ngày nay phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, phía
Nam giáp huyện Long Thành, phía Đông giáp huyện Trảng Bom, phía Tây giáp Thị xã
Tân Uyên, thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương và Quận 9 - Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy,
chúng ta thấy rằng từ “Biên Hòa” lần đầu tiên xuất hiện từ
thời Gia Long cho tới tận hôm nay đã hơn 100 năm “tuổi thọ”. Từ chỉ một trấn,
một tỉnh đến khi chỉ một thị xã (tương đương cấp huyện) rồi chỉ một tỉnh và
hiện nay là chỉ một thành phố (xếp về hành chính thì tương đương với cấp huyện).
Qua đó, cũng đã thấy rõ “địa vị” của “Biên Hòa” trong lịch sử.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải thấy rõ địa lí hành chính của thành phố Biên Hòa
qua các thời kì mới thấy rõ ý nghĩa của tên gọi và sự thay đổi về cương vực,
địa giới của “Biên Hòa”.
Tác
giả: Trần Hoàng
Trích
bài tiểu luận cuối kỳ môn Địa lý học lịch sử
[1] Phan
Đình Dũng, Nguyễn Thanh Lợi, Hỏi đáp Biên Hòa Đồng Nai, NXB. Đồng
Nai, tr.124.
[2] Lương
Văn Lựu (2015), Biên Hòa sử lược toàn biên, quyển 1, NXB, Thế giới,
Hà Nội, tr.51-52.
[3] Lương
Văn Lựu (2015), sđd, tr.63.
[4] Huỳnh
Văn Tới, Phan Đình Dũng (2013), Đồng Nai góc nhìn văn hóa, NXB.
Đồng Nai, tr.11.
[5] Nguyễn
Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp
thuộc((1959 – 1954), NXB. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.113.
Nhận xét
Đăng nhận xét