Bản đồ Nam Bộ
Nam Bộ nằm ở vị trí đầu mối giao thông tự nhiên,
là nơi gặp gỡ những dòng thiên di về tộc người, văn hóa - văn minh của Đông Nam
Á, Nam Á và Đông Bắc Á. Đây cũng là địa bàn tồn sinh của nhiều nền văn hóa,
vương quốc từ Phù Nam, Chân Lạp rồi Đại Việt - Việt Nam. Điều đó đã tạo nên cho
Nam Bộ nhiều đặc trưng đa dạng, kết hợp đan xen, hỗn dung, giao thoa của nhiều
yếu tố, nhiều sắc thái phát triển. Nam Bộ thế kỉ VII - XVI đã xuất hiện nhiều
yếu tố nội sinh. Yếu tố nội sinh ấy đó chính là môi trường, văn hóa,…
Nam Bộ Việt Nam thế kỉ VII - XVI qua tư liệu thư
tịch cổ ghi lại cảnh quan châu thổ sông Cửu Long từ thế kỷ XII - XIII về sau
điều có những mô tả khá thống nhất. Đó là những ghi chép của Chu Đạt Quan về
phong thổ nước Chân Lạp (Chân Lạp phong thổ ký): “Đến nửa cảng mới
thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa
rờn rờn mà thôi”[1], giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến
vùng đất châu thổ này vào thế kỉ XVII cũng đã có nhận xét đây là vùng đất “quận
hiu, hoang mạc”[2]. Sách Văn hiến thông
khảo của Mã Đoan Lâm chép: “Nước ấy (Chân Lạp) xưa cùng với Chiêm
Thành là láng giềng hòa hảo, tuế cống vàng nghìn lạng. Ngày rằm tháng 5, năm
thứ 4, niên hiệu Thuận Hy, chúa Chiêm Thành đem đánh kinh đô nước ấy. (Nước ấy)
thề bảo thù. Năm Kỷ Mùi niên hiệu Khánh Nguyên, cử đại quân xâm nhập Chiêm
Thành, lại lập người Chân Lạp làm Chiêm Thành. Nay cũng là thuộc quốc của Chân
Lạp. Nước ấy nằm ở góc tây nam. Phía đông nam tiếp giáp với Ba Tư Lan. Phía tây
nam cùng giáp với nước Đăng Lưu Mi là láng giềng, cai quản trên 60 xứ. Năm thứ
6 niên hiệu Khánh Nguyên, phủ Khánh Nguyên nói vua nước ấy lên ngôi. Năm thứ 26
sai sứ sang dâng biểu cống voi tốt hai con cùng sản vật địa phương. Chiếu ban
xuống báo đáp họ ưu hậu và dụ rằng nước ấy vốn phải vượt đường biển xa xôi, từ
nay về sau miễn việc vào nộp cống”[3]. Cuối thế kỉ
XVIII, trong sách Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn mô tả: “Phủ Gia
Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ. Soài Lạp. Cửa Đại, Cửa Tiểu, toàn
là rừng rậm hàng mấy ngàn dặm”. “Thiên gia lưu đáo man di thổ - Thủy đa
ngạc ngư, lục xac hổ” (Nguyễn Cư Trinh)[4]…
Liên tục từ thế kỷ XII – XIII đến thế kỷ XVIII, châu thổ sông Cửu Long dường
như trở về với cảnh trí thiên nhiên nguyên sơ tưởng thư chưa hề được khai phá.
Khi lưu dân người Việt lần lượt đến đến vùng châu thổ này đều cùng chung ấn
tượng sâu đậm đây là vùng đất mới không chỉ với con người mới đến mà với cả
cảnh tượng thiên nhiên hoang sơ, mới lạ.
Như vậy, do điều kiện tự nhiên, môi trường sinh
sống, cảnh quan châu thổ hạ lưu sông Mê Kông từ sau khi Phù Nam sụp đổ, qua tư
liệu đương thời, các nhà nghiên cứu đều cho rằng từ thế kỷ XVII, ở châu thổ
sông Cửu Long, những chuyển biến trong cơ cấu cư dân, sự không thích ứng với
điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa dưới thời Chân Lạp, tình trạng chiến
tranh liên miên giữa Chân Lạp và Chămpa và những ảnh hưởng của các đợt tấn công
của đế quốc Mông – Nguyên vào Đông Nam Á là những nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp đưa đến quá trình hoang hóa của vùng đất châu thổ, “điểu thú quần hoang,
tuyệt vô nhân tích” mà những di dân người Việt thấy ở đây vào thế kỉ XVII[5].
Thực tế phát triển lịch sử - văn hóa còn cho
thấy, dù chiếm được Phù Nam nhưng người Chân Lạp khó có thể kiểm soát một vùng
đất quá rộng lớn. Sau đó Chân Lạp lại tập trung vào việc xây dựng Angkor và
xung đột với Chămpa nên hầu như chỉ quản lý được khu vực phía Tây. Còn cư dân
tại phần phía Đông sống thưa thớt, hầu như không chịu sự ràng buộc của một thế
lực chính quyền , họ tiếp tục phát huy truyền thống văn hóa cũ với ảnh hưởng
văn hóa Ấn Đoojddoofng thời có sự giao lưu với các nền văn hóa khác. Dấu vết
của họ tại Nam Bộ là phế tích đền tháp bằng gạch, đá, ngẫu tượng Linga Yoni,
bia kỷ niệm, tượng thần, tượng Phật bằng đá, gỗ; đồ trang sức bằng thủy tinh,
đá quý; đồ thờ cúng, đồ gia dụng bằng gốm… Vùng đất Nam Bộ giai đoạn này gắn
liền với những biến đổi chính trị và điều kiện tự nhiên, sự hòa hợp và cả xung
đột giữa các dòng và truyền thống văn hóa… và kết quả nghiên cứu còn cho thấy
đã thực sự có một giai đoạn “hậu Phù Nam” ở Nam Bộ thế kỉ VI - XI. Từ ý nghĩa
đó, phạm vi lãnh thổ và không gian văn hóa tộc người của các vương quốc có phải
được nhìn nhận theo quan điểm thực tiễn và năng động. Trong rất nhiều trường
hợp, quyền uy và pham vi ảnh hưởng của các quốc gia, đế chế rất khó có thể phân
định bằng những mốc giới chính trị, sự thay thế của các triều đại hay thành bại
trong cuộc chiến tranh.
Hình thành trên một vùng đồng bằng sông nước và
trên một vùng đất đa tộc người, từ trong lịch sử , văn hóa Nam Bộ có hai đặc
trưng chủ đạo là đồng bằng sông nước và sự tiếp biến các yếu tố van hóa của
người Chăm, người Khmer, Hoa vào văn hóa Việt. Xét về mức độ. Những đặc trưng
chủ đạo này cũng là những nét đặc thù của van hóa Nam Bộ. Mặc dù đặc trưng đồng
bằng sông nước cũng có mặt trong các vùng văn hóa Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng chỉ
ở Nam Bộ yếu tố sông nước mới nổi lên thành một đặc trưng chủ đạo, chi phối
toàn diện cuộc sống cũng như các thành tố văn hóa của các cộng đồng cư dân. Các
vùng văn hóa đồng bằng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đều có sự tiếp biến văn hóa giữa
các tộc người, nhưng chỉ ở Nam Bộ văn hóa các dân tộc thiểu số cộng cư mới đủ
sức khúc xạ văn hóa của cư dân Việt trong vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa
quen, vừa lạ đối với chính người Việt đến từ miền Bắc, miền Trung, để rồi từ đó
có sự kết hợp và dung hợp giữa các nền văn hóa.
Do điều kiện địa lí đặc thù, cách thức hoạt động
sản xuất của cư dân trên vùng đất phì nhiêu rộng lớn cũng mang đặc trưng đồng
bằng sông nước rõ nét, đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Đến Nam
Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt nương theo truyền thống để tổ chức quần cư
thành làng ấp. Về nội dung và hình thức, làng ấp của người Việt Nam Bộ có nhiều
điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Còn trên phương
diện văn hóa – tín ngưỡng, Nam Bộ từ lâu đã tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa, tôn
giáo khu vục, sau đó là nơi gặp gỡ các tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời cũng là
cái nôi sinh thành những tín ngưỡng tôn giáo mới, hay về phong tục có tiếp biến
thêm nhiều yếu tố khác… Những nét đặc trưng đó còn được thể hiện trong kho tàng
văn học nghệ thuật, dân gian, hay về ẩm thực, ăn mặc, nhà của, đi
lại (xe đò)[6]… Là vùng đất mang tính mở và tính động
nên người Nam Bộ từ trong lịch sử, đã tỏ ra là những người có đầu óc cởi mở, dễ
tiếp xúc và ở tư thế giao lưu, tiếp thu, hội nhập với cái mới…
Như vậy, từ chiều dài lịch sử, Nam Bộ là vùng
đất mới so với khu vực khu vực khác trên lãnh thổ Việt Nam[7].
Cho đến trước thế kỷ XVII đây là vùng đất hoang vu, “tuyệt không có một tấc
cây”… Chính những yếu tố địa - môi trường, địa - nhân văn đó đã tác động mạnh
và sâu sắc đến việc hình thành những yếu tố văn hóa của cư dân khu vực, cũng
như các yếu tố được coi là bản địa khác. So với các khu vực khác, Nam Bộ trong
lịch sử ẩn chứa nhiều yếu tố thiên nhiên thuận lợi, thích hợp với nền kinh tế,
hệ sinh thái phổ tạp, đa dạng, đáp ứng những yêu cầu thường nhật của cư dân,
cũng như quá trình hình thành và phát triển của Nam Bộ trong quá khứ.
Nguồn: Chuyên luận 6 Đặc trưng lịch sử văn hóa
Nam Bộ thế kỷ VII – XVI: Những yếu tố nội sinh và ngoại sinh in
trong Nguyễn Mạnh Dũng, Việt Nam trong quá khứ - Tư liệu và suy ngẫm,
NXB. CTQG, HN, tr.218-223.
Trần Hoàng (sưu tầm)
[1] “Từ chỗ vào Chân
Bồ trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm
dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó.
Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa
chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng hợp nhau thành từng đàn trăm ngàn
con, tụ tập ở đấy. Lại có giống nhất, đầy tre dài đằng đặc mấy trăm dặm. Loại
tre đó, đốt có gai, măng rất đắng”.
[2] Alexandre de
Rhodes: Hành trình và truyền giáo, bản dịch của Hồng Nhuệ, Tủ sách
Đại Kết - Ủy ban đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
[3] Kỷ yếu Hội thảo
khoa học: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, NXB. Thế giới, Hà
Nội, 2008, tr.303-304.
[4] Xem thêm chuyên
luận: Nguyễn Cư Trinh và vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVIII
[5] Kỷ yếu Hội thảo
khoa học: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX,
NXB. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr/.77.
[6] Hình ảnh dòng
sông, con đò vì vậy đã phổ biến đến mưc trở thành một hình tượng văn học, một
biểu tượng của không gian Nam Bộ.
[7] Xem thêm Sơn
Nam, Văn minh miệt vườn , NXB. Văn hóa, Hà Nội, 1992.
Nhận xét
Đăng nhận xét