Quan hệ Đàng Trong-Xiêm thế kỷ XVII-XVIII

Bối cảnh khu vực

Đông Nam Á là một khu vực chia làm hai phần rõ rệt. Phần lục địa gọi là bán đảo Trung- Ấn. Phần còn lại là hải đảo theo cách gọi của người Trung Hoa gọi là Nam Dương.
Đông Nam Á lục địa thế kỉ XVII- XVIII là khu vực các cứ với rất nhiều quốc gia thường xuyên xung đột tranh giành quốc gia và tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng suy cho cùng chỉ là sân chơi của Đại Việt, Xiêm và Miến Điện bản thân những quốc gia lớn này cũng hoàn toàn chưa thống nhất. Những quốc gia nhỏ hơn như Lanna, Ai Lao, Chân Lạp,..trở thành miến mồi ngon, đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự đụng độ giữa Đàng Trong- Xiêm và giữa Xiêm- Miến Điện.
Việc lên ngôi của vua 6 – Narasuen (1590-1605) mở đầu một giai đoạn phục hưng của Ayuthaya sau một thời gian bị Mianma thống trị (1569-1590). Ayuthaya trở lại tấn công Mianma gây cho nước này nhiều tổn thất, sau khi đã hạ được thành Lovek, đánh bại lực lượng đề kháng của Campuchia và bắt Campuchia thần phục (1595). Tuy nhiên, thế kỉ XVII và gần hết thế kỉ XVIII, tình hình xã hội chính trị của Ayuthaya đã có những biến động rõ rệt. Sự phân hóa xã hội đã diễn ra sâu sắc. Việc đồng hóa và tiểu giảm thành phần tộc người Môn, sự bần cùng hóa nhân dân và sự lũng đoạn của người Hoa đã làm cho những mâu thuẫn xã hội thêm gay gắt. Tình hình đó đã phản ánh vào đời sống chính trị, gây nên tình trạng không ổn định với những vụ xung đột, mưu sát, cướp ngôi, thường xãy ra trong nội bộ hoàng tộc.
Nhân cơ hội đó, Mianma lại đem quân đánh Ayuthaya. Mianma lúc này đã được khôi phục và thống nhất dưới triều vua Alaugpaya trở thành một quốc gia hùng mạnh. Quân Mianma cho bao vây kinh đô Ayuthaya từ tháng 2/1766 đến tháng 4/1767 thì phá được thành. Họ đã đốt phá hầu như hủy diệt kinh đô của người Thái, mà chỉ giữ lại cái gì đó có thể mang về làm chiến lợi phẩm, hàng vạn ngôi nhà và cung điện bị đốt. Vua và số đông hoàng tộc bị chết. Cuộc tàn sát đã gây đau thương và căm hờn trong dân Thái. Một viên quan người gốc Hoa tên là Trịnh Quốc Anh đã dẫn 500 quân phá vây chạy thoát ra ngoài. Với tinh thần thực tiễn của người Hoa, dựa vào sự căm hờn và ý chí chống Mianma của người Thái, Quốc Anh đã tập hợp được dân binh, nhanh chóng đuổi được quân Mianma và truy quét trộn cướp, lập lại chính quyền rồi tự lên ngôi vua, vào giữa năm 1767, gọi tên nước là Xiêm, đặt vương hiệu là phraya Đắc Tân, âm Triều Châu đọc là Phìa Taksin. Phìa (phraya) là tước vương Thái, còn Taksin (Đắc Tân: người thành đạt mới) là hiệu. Tục truyền rằng, Taksin đã nhặt được quyền trượng của vua Thái trong đống tro gạch của hoàng cung, nên đã dễ tập hợp được nhân dân chống Mianma.
Kinh đô cũ Ayuthaya đã bị phá hủy, Taksin quyết định dời kinh đô đến Chanburi sau đổi tên là Băng Cốc, một địa điểm gần hơn biển. Một thế kỉ trước,  khi vua Ayuthaya nhường cho người Pháp lập thương điếm, nơi này còn là một bãi sình lầy bẩn thỉu, nay đã được xây dựng khang trang và tụ hội đông đúc.
Sau khi lên ngôi Taksin tiếp tục cuộc chiến tranh với Mianma. Trong một trận kịch chiến, Xiêm đã giành được thắng lợi và đẩy bật quân Mianma ra khỏi Chiang Mai. Lan Na trở thành một thuộc quốc của nước Xiêm (năm 1776) và từ đây dần dần trở thành một bộ phận lãnh thổ của người Thái. Cuộc xung đột Xiêm – Mianma không phải vì thế mà chấm dứt. Ngược lại,  nó vẫn tiếp diễn dai dẳng. Hơn 10 cuộc chiến dữ dội đã nổ ra trong vòng nữa đầu thế kỉ XIX, trong đó có hai lần quân Thái tiến sâu vào lãnh thổ Mianma. Cuộc xung đột kéo dài đến năm 1886 mới chấm dứt khi cả hai nước đã không còn quyền tự chủ nữa mà đã do các nước tư bản phương Tây quyết định.
Khi vương quốc Xiêm được khôi phục, nước Lan Xang đã bước vào giai đoạn suy thoái. Lãnh thổ bị phân liệt thành 3 xứ do các thế lực khác nhau cắt cứ. Nhân cơ hội đó, sau khi thắng Mianma ở Chiang Mai, Taksin cử hai đạo quân xâm lược các mường Lào (năm 1778) và biến các mường này thành thuộc quốc của mình.
Đồng thời, Taksin cũng đòi hỏi các vương quốc Campuchia và Malaixia phải tiếp tục thuần phục. Các tiểu quốc Mã Lai như Kedah, Kelanta, Trengganu và Patani đã phục tùng.Trong khi đó vương quốc Campuchia là Srey – Sauryopor lại tỏ ra bướng bỉnh, “ người ta không thể đối xử ngang hàng với một kẻ tiếm quyền, con của một lái buôn người Hoa và một người đàn bà thường dân Xiêm”.
Taksin giận giữ,  đã cử hai đạo quân tấn công Campuchia (năm 1768). Đạo quân bộ đã bị lực lượng Campuchia phá tan (năm 1769), nhưng thủy quân Xiêm lại gây cho phía Campuchia gặp nhiều khó khăn. Campuchia phải cầu cứu chúa Nguyễn. Với sự giúp sức của người Việt, năm 1771, quân Xiêm bị thua đã phải rút về nước. Tuy nhiên, Xiêm không hề từ bỏ tham vọng của mình đối với Campuchia.
Trong thực tế, Taksin đã tiếp tục một cách tích cực những công việc, những chính sách mà các nhà vua Ayuthaya đã theo đuổi. Mặc dù đã cố gắng tỏ ra “quần chúng”, gần gũi và ban phát cho dân nghèo, ông vẫn bị quý tộc, quan lại Thái ghét. Năm 1782, Taksin bị một nhóm quý tộc mưu sát, cùng với cả gia đình ông. Người cầm đầu hóm quý tộc này là Phra Phuti lên làm vua, hiệu là Rama I (1782- 1809) . Bên cạnh đó, Miến Điện thường xuyên xâm lược Ai Lao chiếm lấy Chiengmai một tiểu quốc Thai , ngoai ra Đàng Trong không ngừng gia tăng ảnh hưởng lên Chân Lạp và Ailao , nhìn chung bối cảnh ĐNA lục địa thế kỷ XVII – XVIII là mối quan hệ rối ren phức tạp dựa vào lợi quốc gia, các quốc gia nhỏ yếu bị chèn ép phải chịu thiệt thòi .
Yếu tố kinh tế – chính trị
Đàng trong thế kỉ XVII, chính trị trong nước tương đối ổn định,  nhưng từ nữa cuối thế kỉ XVIII, thì trong nước quyền thần lộng quyền. Trương Phước Loan được thăng làm Quốc phó, giữ việc bộ Hộ, quản cơ Trung tượng, kiêm Tàu vụ. Chúa còn nhỏ, chỉ thích vui chơi, ca hát, Loan tự quyết định mọi việc, bán quan buôn ngục không kiên nễ ai.
Con trai Loan là Thặng lấy công nữ Ngọc Nguyện, con chúa Thế Tông, Nhạc lấy công nữ Ngọc Đảo cũng con chúa Thế Tông, đều giữ chức Chưởng dinh, Cai cơ. Cả nhà Phước Loan quý sũng, quyền thế, át cả trong triều, ngoài quận. Loan càng ngày càng buôn lung, tham lam, tàn nhẫn, người ta gọi là Trương Tần Cối. Cầm đầu bộ Hộ và Tàu vụ, Loan đặt bè đảng là bọn Thái Sinh giữ những cửa sông, cửa biển trọng yếu để thu thuế, Loan được thu thuế sản vật nguồn Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân làm ngụ lộc, mỗi năm thu được 4,5 vạn quan, còn các món mà chức bộ Hộ và Tàu vụ thu được mỗi năm cũng không dưới 3,4 vạn quan. Thêm vào đó, lại còn bán quan, buôn ngục, Loan trở thành giàu lớn, vàng bạc, Châu ngọc, gấm vóc chất như núi, ruộng vườn, nhà cửa, nô bộc, râu ngựa thì không biết bao nhiêu mà tính. Loan có biệt thự ở làng Phần Dương, một năm lụt lớn, rương hòm ướt hết, nước rút rồi, đem đồ đạt ra phơi, người ta thấy vàng sáng chói cả đầy sân.
Từ khi Trương Phúc Loan chuyên quyền, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ sở. Trong khoảng 4 năm, năm năm tai dị hiện ra luôn: động đất, núi lỡ, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp nỗi lên khắp nơi. Năm Kỉ Sửu (1769), Hàn lân Nguyễn Quang Tiền nói với nhiều người rằng không quá năm sáu năm nữa ở Quảng Nam sẽ có binh nỗi dậy.
Thế mà Duệ Tông cũng chỉ nghĩ đến việc vui chơi, xa xí, Năm ấy, sai các chây huyện lập phường chơi xuân, mỗi phường 15 người, mỗi người nạp thuế 1 quan tiền để khi có hội hè thì làm trò vui.
Ở Quảng Ngãi, mọi Đá Vách thường xuống cướp phá, từ thời các chúa trước đã khiến dân Quảng Ngãi lập 6 đạo quân, chia phiên đóng giữ các nơi, dân địa phương mới được yên. Năm Canh Dần (1770), mọi ấy lại xuống quấy nhiễu. Chúa sai Kí lục Quảng Nam là Trần Phước Thành làm cai bộ, tuần hành 5 phủ Thăng Bình, Điện Hàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên mưu tính cách đối phó, điều khiển tướng sĩ, binh dân của 6 đạo binh Quảng Ngãi, hợp với quân lính 2 phủ Quy Nhơn và Phú Yên đi đánh dẹp.
Năm ấy, Nguyễn Văn Nhạc ở Tây Sơn dấy binh. Nhạc người gốc huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), tổ bốn đời thời Lê Thịnh Đức (1653- 1657), trong cuộc chiến tranh, quân chúa Nguyễn đánh Nghệ An, bị bắt đưa vào cho ở ấp Tây Sơn Nhứt, thuộc phủ Quy Ninh. Cha Nhạc là Phước dời đến ở ấp Kiến Thành, sinh 3 trai, trưởng là Nhạc, thứ là Huệ, út là Lữ. Nhạc làm nghề buôn trầu, thường đến buôn bán với dân miền thượng ở đất mọi, có lần đi qua núi An Dương được một cái kiếm, cho là thần vật, đem khoe với dân chúng, nhiều người tin. Anh em Nhạc theo học với Giáo Hiến. Hiến biết Nhạc là người có tài. Sau Nhạc làm Tuần biện lại ở Vân Đồn, vì tiêu hết tiền thuế, bị Đốc Trưng là Đằng thôi thúc, đòi hỏi riết quá, phải trốn vào núi, làm nghề trộm cướp. Giáo Hiến nuôi sẵn chí báo thù Trương Phước Loan, nói riêng với Nhạc rằng. Có lời sấm nói “tây khởi nghĩa, bắc thu công- anh là người ở Tây Sơn, vậy hãy gắng lến!”. Nhạc tin lời lấy làm mừng.
Để mượn thêm lực lượng bên ngoài và gây thêm vây cánh bên trong, Nhạc mật ước với nữ chúa Chiêm Thành tên là Thị Hỏa.
Tây Sơn nhanh chóng chiếm Quy Nhơn sau đó chiếm trọn miền duyên hải. Thấy được Nam Hà có biến chúa Trịnh cho quân đánh vào do Hoàng Ngũ Phúc làm tiết chế. Ngày 3 táng giêng năm 1785 Phú Xuân thất thủ. Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng gia quyến và quan tùy tùng hơn một trăm người ra cửa Tư Dung chạy về Gia Định.Đàng trong bị phân chia làm ba khu vực: Quảng Nam, Thuận Hóa quân Trịnh chiếm đóng, Gia Định chúa Nguyễn vẫn giữ phần còn lại Tây Sơn chiếm, gần 15 năm chinh chiến Tây Sơn đã chiếm gần như trọn Đàng Trong. Vào năm 1786, phía Bắc đánh bại quân Trịnh, ở Gia Định chúa Nguyễn thoát chết, nhiều lần phải lưu vong nương nhờ ngoại ban trong đó có cả Xiêm.
Năm Bính Tuất (1766),được xin vua Tiêm là Phung vương (Ekathat) sửa soạn binh Athuyền sang Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ phi báo về dinh Điều khiển Gia Định xin quân ứng viện. Nhưng rồi vua nước Miến Điện là Mangra sang 2 đạo binh sang đánh Tiêm La, tàn phá nước này rồi đến đóng trước kinh đô A Du Đa( Ayuthya). Năm sau A Du Đa bị hạ, đốt phá hết. Vua Tiêm ( Ekatha) trốn nhưng bị bắt rồi chết. Nước Tiêm La đã gần bị xóa tên trên bản đồ thế giới, may có một người tên là Trịnh Quốc Anh con của một người Tàu Triều Châu tên là Yển, làm chức quan cai trị đất Mường tát, tổ chức quân đội, cương quyết chống đánh, diệt đạo quân Miến, rồi năm Mậu Ti (1768) tự lập làm vua, đóng đô ở Thonbury, gần Vọng Cát. Sau khi Trịnh Quốc Anh lên làm vua Xiêm đòi Chân Lạp cống, vua Chân Lạp là Mặc Tôn cho rằng Quốc Anh không phải chính thống nên không cống. Năm 1781, Quốc Anh sai tướng Chakri chỉ huy kéo quân sang Chân Lạp. Vua Campuchia là Nặc Ân sang cầu cứu chúa Nguyễn. Năm 1782, Nguyễn Quốc Anh cử Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lăn đem 3000 quân sang và đóng ở Lovek. Thấy Chakri ra quân lâu không thắng nên Trịnh Quốc Anh sinh nghi bắt giam cả gia đình Chakri. Chakri tức giận hòa với Nguyễn đem quân về nước giành lấy ngôi vua. Quốc Anh sợ phải gọt đầu đi tu. Chakri mở ra triều đại mới và tồn tại cho đến ngày nay.
Về kinh tế: tuy có sự tranh giành ảnh hưởng trong khu vực nhưng mối quan hệ buôn bán giữa hai nước vẫn phát triển với những hải cảng quan trọng như Băng Cốc, Đà Nẵng, Gia Định, tàu bè hai nước vẫn thường xuyên ra vào để thuận lợi cho việc buôn bán vì hải phận Thủy Chân Lạp giáp tiếp với hải phận Tiêm La, ghe thuyền hai nước thường xuyên qua lại, ghe thuyền Tiêm La muốn đến các hải cảng Trung Hoa là những nơi họ thường xuyên đến mua hàng hóa, phải đi qua Hà Tiên, ghe thuyền nước này gặp gió bão, có khi trôi giạt đến hải phận nước kia. Nhờ sự giao hảo giữa hai nước, các ghe thuyề và người trong thuyền bị trôi giạt được trao trả cho nhau. Năm Ất Dậu (1755), theo lời yêu cầu của Tiêm, chúa Thế Tông sai cấp cho quan thuyền Tiêm La, một tấm long bài để được miễn thuế khi vào các cửa biển Nam Hà.
1. Yếu tố Chân Lạp
Năm 1618 vua Chetha II lên ngôi (1618- 1628), dời đô về U-đông, muốn thoát khỏi sự lệ thuộc Thái Lan. Năm 1623, vua Chetha II xin cưới một công chúa Việt Nam và yêu cầu chúa Nguyễn Phước Nguyên gửi viện binh đến giúp chống Xiêm, mặt khác cũng đồng ý để đất Gia Định cho chúa Nguyễn.
Vương quốc Xiêm được thành lập năm 1767 tiếp tục thi hành đường lối khống chế Vương quốc Chân Lạp. Cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe trong triều đình Khơ-me vẫn tiếp tục và càng tiếp tục thì càng thúc đẩy sự can thiệp của triều đình Xiêm.  
Năm 1794 Bangkok đưa ông hoàng Ang Eng về U-dông làm vua. Ông này không chịu được cảnh lệ thuộc Xiêm nên ra lệnh bắt những phần tử thân Xiêm. Xiêm đưa ngay quân sang U-đông. Ông tổ chức chống lại, mặt khác yêu cầu triều đình Huế cho quân sang giúp. Vị trí của ông được củng cố, khi ông ốm chết, Xiêm đưa quân sang Chân Lạp  gây ra cuộc chiến tranh kéo dài từ 1841 đến năm 1845 cả quân đội Xiêm và quân đội Việt Nam thoả thuận rút khỏi Chân Lạp và Ang Dông lên ngôi vua với sự chấp nhận của cả hai bên. ừ khi được thành lập năm 1350, nước Ayuthia đã liên tiếp xâm lược Chân Lạp qua ba giai đoạn (thế kỷ XIV, XV và XVII). Có lần Chân Lạp bị Ayuthia đô hộ năm năm liền. Sau lần đánh Nghệ An cuối cùng, Chân Lạp không còn lần nào đánh Đại Việt nữa và giữa Chân Lạp và Đại Việt cũng không có tiếp xúc gì, có lẽ vì hai nước vẫn cách xa nhau và bản thân Chân Lạp luôn luôn lo đối phó với các cuộc xâm lược của nước Ayuthia hiếu chiến. 
Vương quốc Xiêm được thành lập năm 1767, và vẫn tiếp tục chính sách xâm lược và can thiệp của vương triều Ayuthia. Nhà Tây Sơn sau khi chiếm vùng lãnh thổ của chúa Nguyễn đã tiếp tục tiến xuống phía Nam và chiếm nốt phần còn lại của Vương quốc Chiêm Thành Bai Chanar (tức là Phan Rí) vào khoảng năm 1795 (Thật ra đến khi đó đất Phan Rí đã đặt dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn).
Từ năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đã được cử làm kinh lược xứ Đông Nai và đặt đại bản doanh tại Cù Lao Phố.  Năm 1618 vua Chân Lạp Chậy Chetta II cưới con Sãi vương Nguyễn Phước Nguyên, không những mở đầu giai đoạn quan hệ Chân Lạp – Đại Việt mà còn tạo điều kiện để Đại Việt đóng vai trò trên chính trường Chân Lạp. 
Kế tiếp ngôi vua Chetta II sau khi ông mất, vua Ang Eng là người đầu tiên yêu cầu Đại Việt mang quân sang giúp ông đánh lại Xiêm.  Nhưng về sau năm 1688 vua Nặc Thu bang Sau đã được lên ngôi nhờ sự giúp đỡ của chúa Nguyễn, lại đắp luỹ ngăn sông để đối phó với quân của Hoàng Tiến, người đã giết Dương Ngạn Dịch đang theo Đại Việt Tướng Nguyễn Hữu Hào, anh ruột Nguyễn Hữu Cảnh, đi dàn xếp việc người Hoa cướp phá các làng mạc Khơ-me. 
Năm 1699 Nguyễn Hữu Cảnh được cử vào trấn Biên lo việc biên giới. ông đã đến thẳng thành luỹ đối phương giải thích rõ chính sách tôn trọng lân bang của Việt Nam. Vua Nặc Thu chịu thần phục ViệtNam 1.
Tình hình Chân Lạp, do những tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ hoàng tộc Chân Lạp và chính sách can thiệp của Vương quốc Xiêm, ngày càng trở nên phức tạp và rối ren. Thế kỷ XVI mười ba vua thay đổi nhau trị vì đất nước với nhiều tranh giành trong triều đình. Đến thế kỷ XVIII tình hình, vẫn do những nguyên nhân ấy, càng tồi tệ hơn. Có mười bảy vua thì bảy người bị giết chết, ba người bị lật đổ bảy người còn lại thì bị bốn cuộc bạo động chống đối lớn 2.  
Quan hệ Đại Việt – Chân Lạp chỉ xuất hiện từ cuối thế kỷ XVII khi hai nước có chung biên giới, và từ đây do chính sách thống trị của Vương quốc Xiêm và yêu cầu của phải chống Xiêm trong hoàng tộc Chân Lạp, hai nước Đại Việt và Xiêm trở thành địch thủ, dẫn tới việc Xiêm đem quân can thiệp miền Nam Việt Nam, và cuộc chiến tranh lớn giữa hai nước trên lãnh thổ Chân Lạp vào nửa đầu thế kỷ XIX và việc quân đội Việt Nam chiếm đóng Chân Lạp. Chân Lạp đã trở thành mảnh đất tranh giành ảnh hưởng giữa Đại Việt và Vương quốc Xiêm trước khi trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
2. Yếu tố Ai Lao
 Sau thời kỳ Pha Ngủm và Xảm Xên Thay, từ năm 1428 đến 1456, Lạn Xạng rơi vào tình trạng hỗn loạn, thậm chí có lúc không có vua. Từ đầu thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVI Lạn Xạng hết bị Ayuthya xâm lược hai lần lại bị Ava (Mianma) xâm lược ba lần, chiếm kinh đô Viếng Chăn và đưa một người thân Ava lên làm vua. 
Đến năm 1592 người Lào mới giành lại được độc lập, chấm dứt sự lệ thuộc Ava. Lạn Xạng bước vào thời kỳ toàn thịnh trong thế kỷ XVII Thời gian này vua Xulinhavongxa đặt quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng trong đó có Đại Việt với Xiêm, vua đã thoả thuận với vua Ayuthya làm một ngôi tháp hữu nghị trên biên giới tại Mường Dàn Xài. Với Đại Việt người ta cũng giải quyết một số vấn đề về biên giới.
Từ thế kỷ XVIII, Lạn Xạng bước vào thời kỳ suy yếu rồi bị chia cắt làm ba tiểu Vương quốc. Trong nước Lạn Xạng, tuy có một chính quyền tay sai ở Viếng Chăn, một số Mường ở vùng biên giới Lào – Việt không chịu theo mệnh lệnh của chính quyền Viếng Chăn.  
Chính quyền thân Xiêm ở Viếng Chăn đem quân đánh Xiêng Khoảng, bắt châu Mường Xiêng Khoảng đưa về Viếng Chăn. Việc đó làm cho quan hệ với Đại Việt trở nên căng thẳng. Lúc này tại Đại Việt nhà Tây Sơn đã làm chủ xứ Đàng Trong, Nguyễn Huệ đã đánh đổ chế độ Lê – Trịnh, lên ngôi Hoàng đế và đánh tan 29 vạn quân Thanh.
Vua Quang Trung muốn thông hiểu với Lạn Xạng nên năm 1791 đã cử một phái bộ đến Viếng Chăn. Vua Viếng Chăn là châu Nanthaxến, vốn là người thân Xiêm, đã bắt sứ giả và giải sang Bangkok. Vua Quang Trung bèn phái đốc trấn Nghệ An Trần Quang Diệu và đô đốc Bùi Thị Xuân mang ba vạn quân đi đánh Lạn Xạng. 
Đại quân của Trần Quang Diệu đã hạ được Trấn Ninh, Trình Cao, Quỳ Hợp rồi tiến thẳng tới Viếng Chăn. Vua Nanthaxến không chống lại được, phải bỏ chạy sang Bangkok.  
Quân của Trần Quang Diệu truy kích đến bờ sông Mê Nam Khoáng. Quân Xiêm ở bên kia sông không dám qua sông sang cứu quân của Viếng Chăn. Quân của Trần Quang Diệu dừng ở bên này sông rồi trở về Nghệ An.
Vua Nanthaxến được quân Xiêm đưa về Viếng Chăn. Chậu Mường Luôngphabăng tố giác với Xiêm là châu Mường Viếng Chăn quan hệ với Tây Sơn dù chưa biết thực hư thế nào, vua Xiêm sai bắt chậu Nanthaxến về Xiêm, hai năm sau Nanthaxến chết.  
Dưới thời Tây Sơn, quan hệ Đại Việt – Lạn Xạng đến đây là xong một giai đoạn, nhưng do vị trí Lạn Xạng là một nước đệm giữa Xiêm và Đại Việt và do ý đồ bành trướng của Xiêm, quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng và Lạn Xạng trở thành một địa bàn tranh giành ảnh hưởng giữa hai nước ở thế kỷ XVIII.
Tác động của mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm trong các thế kỉ XVII – XVIII
1. Đối với chính quyền Đàng Trong
Lợi ích  về kinh tế trong mối quan hệ Xiêm với Đàng Trong không lớn lắm, vì chính quyền Đàng Trong chú trọng về nông nghiệp là chính, bên cạnh giao thương thì các nước cũng quan tâm đến việc đặt quan hệ với Xiêm, có lợi cho việc buôn bán trao đổi giữa hai quốc gia. Rừ khi mở đất về phương Nam tới vịnh Xiêm nhu cầu giao thương ngày càng cao, ghe thuyền hai nước thường qua lại, ghe thuyền Xiêm muốn đến cảng Trung Hoa phải qua lãnh hải của Đàng Trong, đây là cái lợi cho thương mại, họ phải quá cảnh qua Hà Tiên, Gia Định và Quảng Nam nên buôn bán cũng được đẩy mạnh, bên cạnh đó ghe thuyền buôn bán của Đàng Trong vào Băng Cốc cũng khá đông. Bên canh đó, về mặt ngoại giao của hai nước, về giành ảnh hưởng Chân Lạp có thể giải quyết như chấp nhận một vị vua của Chân Lạp lên ngôi. Việc quan hệ Đàng Trong- Xiêm vẫn thể hiện một nước lớn với giọng đàn anh qua thơ tự ta vẫn thấy. Từ đó khẳng định vị trí của Đàng Trong là một quốc gia lớn, hùng mạnh, trong khu vực mà các đại thần của Thanh đã nhận xét: “Nước Quảng Nam hùng trị một phương, thôn tính Chiêm Thành, Chân Lạp, sau ắt sẽ lớn”.
Bên cạnh những mặt lợi đó chúng ta cũng chịu không ít thiệt hại trong mối quan hệ này do sự tranh giành ảnh hưởng trong khu vực, chiếm lấy Chân Lạp hai nước thường xuyên dẫn đến chiến tranh, thiệt hại về người và của rất lớn. Kể từ cuối thế kỉ XVIII, tình hình quốc tế trong khu vực có những biến động mới: Xứ Đàng Trong bắt đầu có biên giới chung với Campuchia. Việt Nam bắt đầu có vai trò quốc tế ở Campuchia và Lào.
Quan hệ của Việt Nam thời chúa Nguyễn hay thời Tây Sơn vượt quá phạm vi quốc gia và liên quan tới một nước thứ ba, Vương quốc Xiêm.  Năm 1674 triều đình Campuchia có biến động.  Nặc Ông Đài đuổi vua Nặc Ông Nộn, Nộn chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Dương Lâm mang quân sang giúp, Nặc Ông Đài thua bỏ chạy rồi tử trận. 
Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ông Thu làm vua, còn Nặc Ông Nộn làm phó vương đóng tại Sài Gòn. Vua Chạy Chetta xin cưới một công chúa Việt Nam nhằm giành được sự ủng hộ của triều đình Huế chống lại Xiêm. 
Năm 1698 chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn làm kinh lược tổ chức bộ máy hành chính và việc khẩn hoang đất Gia Định. Năm 1699, Nặc Ông Thu cho đắp luỹ ở Lovek và Phnom Pênh để ngăn cản việc buôn bán. Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh đi đánh. Nặc Ông Thu đem quân ra chặn nhưng trước sức mạnh và uy thế của Nguyễn Hữu Cảnh, Nặc ông Thu bỏ chạy, Ang Eng con của vua ông Nộn mở cửa thành ra hàng. Nguyễn Hữu Cảnh lại mời Nặc Ông Thu trở lại Lovek làm vua. 
Năm 1771 vua Tác Xỉn dẫn quân Xiêm tràn vào Campuchia và lập Nặc Ông Nộn lên làm vua thay Nặc Tôn đồng thời chiếm đóng Phnom Pênh và có ý nhòm ngó đánh Gia Định. Năm 1772, quân của Nguyễn Cửu Đàm đi đánh đuổi quân chiếm đóng Xiêm; đi đến đâu quân Xiêm bị diệt đến đó. Cả vua Xiêm và Nặc Nộn đều chạy. Quân ta thu phục khắp nơi (Trừ Hà Tiên năm sau mới giải phóng), giải phóng Phnom Pênh, lovek, đưa Nặc Tôn trở lại làm vua.
Một yếu tố tác động đến thái độ của Việt Nam ở miền Nam đối với Campuchia và Thái Lan là sự thay đổi người làm chủ Sài Gòn:
Từ tháng 3 năm 1776 đến tháng 6 năm 1776: Nguyễn Lữ chiếm Sài Gòn.
Tháng 5 năm 1776, Đỗ Thành Nhơn chiếm lại Sài Gòn và rước chúa Nguyễn về. Đến tháng 3 năm 1777 Nguyễn Ánh mang quân sang Campuchia đòi nộp cống như xưa.
Từ tháng 3 năm 1777 đến tháng 10 năm l777: Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đánh Gia Định, hai chúa Nguyễn chạy trốn rồi bị giết chết. Nguyễn Lữ và Nguyễn huệ lấy xong Gia Định rồi rút về Quy Nhơn.
Từ tháng 10 năm 1777 đến tháng 12 năm 1777 : Nguyễn Ánh chạy ra Phú Quốc, thêm quân tiếp viện đánh bại tổng trấn Châu và lấy lại Sài Gòn.  Nguyễn Ánh được tôn là Đại nguyên soái nhiếp chính quốc. 
1779 Đỗ Thanh Nhơn và Hồ Văn Lân mang quân sang Campuchia giải quyết việc tranh chấp cướp ngôi vua, đưa Nặc Ân lên làm vua, Hồ Văn Lân làm bảo hộ vua; Nguyễn Ánh xưng vương tại Sài Gòn. Vua Xiêm Tắc Xỉn cử tướng Chakkri xâm lược Campuchia, Nặc Ân cầu cứu chúa Nguyễn. 
Năm 1782 Nguyễn Ánh cử Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân mang 3000 quân sang Cam pu chia. Ngờ Chakkri âm mưu giết mình, Tắc Xỉn bắt giam vợ con Chakkri. Chakkri kết bạn với tướng Nguyễn Hữu Thoại rồi đem quân về Xiêm giết Tắc Xỉn, tự lập làm vua xưng là Ram 1.
Từ tháng 3 năm 1782 đến tháng 8 năm l782: Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ mang đại binh vào đánh Gia Định . Nguyễn Ánh thua chạy ra Phú Quốc. Bình định xong Gia Định, Nhạc và Huệ trở về Quy Nhơn.
Từ tháng 8 năm 1782 đến tháng 2 năm 1783: Tướng Đỗ Thành Nhơn lấy lại Sài Gòn, rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn Ánh về.
Từ tháng 2 năm 1783 đến tháng 8 năm l783: Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lại đánh Gia Định, quân Nguyễn thua to, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 quân Tây Sơn ra đánh Phú Quốc, Nguyễn Ánh chạy được sang một đảo khác rồi trốn sang Xiêm. Cho là việc bình định đã xong, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, để tướng Trương Văn Đa giữ Gia Định.
Như vậy trong thời gian bảy năm (1776- 1783), quyền làm chủ Sài Gòn luôn luôn thay đổi giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn nhưng chỉ có chúa Nguyễn có quan hệ với triều đình Campuchia kể cả việc đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Campuchia.
Như trên đã nói, từ 1781 quân Xiêm do tướng Chakkri chỉ huy đã kéo sang Campuchia. Vua Campuchia Nặc Ân sang cầu cứu chúa Nguyễn.  Năm 1782 Nguyễn Ánh cử Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem ba nghìn quân sang cứu và đóng ở Lovek. 
Đã sẵn âm mưu thôn tính Campuchia, Xiêm lại muốn nhân dịp này xâm chiếm luôn miền Nam nước ta. Vua Xiêm cho mời Nguyễn Ánh sang Bangkok hội ý. Sau đó vua Xiêm đồng ý đưa quân sang miềnNam. Vua quyết định đưa hai vạn thuỷ quân. Tháng 6 năm 1784 Nguyễn ánh dắt quân Xiêm về đánh Gia Định. Ngoài ra vua Xiên còn cử hai tướng Lục Cơ và Sa Uyển cùng với Chiêu Thuỳ Biện (một cựu thần Chân Lạp đã đầu hàng Xiêm) đem hai đạo bộ binh từ Chân Lạp mở một mũi tiến công đánh xuống Gia Định rồi phối hợp với thuỷ quân. 
Hai vạn quân thuỷ và ba trăm chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của tướng Chiêu Tăng từ Bangkok vượt biển đánh chiếm Gia Định. Tàn quân của Nguyễn Ánh cũng được tập hợp và giao cho Chu Văn Tiếp được phong là Bình Tây đại đô đốc chỉ huy.  
Thuỷ quân Xiêm đổ bộ lên Kiên Giang, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam dưới danh nghĩa “giúp Nguyễn Ánh”. Phối hợp với ba vạn quân bộ của Sa Uyển và Chiêu Thuỳ Biện, thuỷ quân Xiêm đánh chiếm Trấn Giang (Cần Thơ), một vị trí chiến lược quan trọng ở miền Tây Gia Định.
Như vậy cả thuỷ bộ, Xiêm có 5 vạn quân, không kể quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Sau gần 4 tháng, quân Xiêm đã chiếm được Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Xắc (Sóc Trăng), Trà Oi, Sa Đéc, Mân Thít (Vĩnh Long), Ba Lai (Bến Tre), Trà Tân (Mỹ Tho) và kiểm soát nửa phía Tây Gia Định về hữu ngạn sông Tiền (tức là ba tỉnh Hà Tiên, An Giang, Vĩnh Long).  
Cuối năm 1784, đô uý Đặng Văn Trấn từ chiến trường về Quy Nhơn báo cáo tình hình Gia Định. Bộ chỉ huy quyết định cử Nguyễn Huệ đem thuỷ quân vào Nam tổ chức phản công, nhanh chóng quét sạch quân Xiêm-Nguyễn ra khỏi đất Gia Định. Nguyễn Huệ dùng thuyền chiến vượt biển vào Gia Định khoảng đâu tháng giêng 1785, đóng quân và đặt sở chỉ huy tại Mỹ Tho.
Nguyễn Huệ biết ràng so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch. Kể cả quân của Trương Văn Đa, Nguyễn Huệ chỉ có khoảng 2 vạn quân trong khi địch có năm vạn quân không kể quân bản bộ của Nguyễn ánh. Yêu cầu là đánh nhanh giải quyết nhanh. Với số quân mấy nghìn người, Trương Văn Đa phải tạm thời rút lui, nhưng vẫn giữ những vị trí quan trọng như Mỹ Tho, Gia Định, vừa rút vừa đánh và cố gây tổn thất cho địch. 
Trong trận Mân Thít, quân Trương Văn Đa đã giết Bình tây đại đô đốc của Nguyễn Ánh là Chu Văn Tiếp, làm bị thương tướng Xiêm là Thái Xi Đa.  Trong trận đánh đồn Ba Lai và Trà Tân, quân Trương Văn Đa còn giết chết tướng Đặng Văn Lương của Nguyễn Ánh. Để tăng thêm chủ quan cho địch, Nguyễn Huệ dùng một người Chân Lạp làm sứ giả đem vàng bạc, gấm vóc đến gặp chủ tướng của quân Xiêm xin giảng hoà.
 Tân triều (tức Tây Sơn – TG) và cựu triều (tức Nguyễn Ánh – TG) nước tôi tranh nhau lãnh thổ và nhân dân không thể cùng đứng với nhau được. Nước tôi cùng nước Xiêm cách trở xa xôi, trâu và ngựa không đánh hơi nhau được, chẳng hay vương tử (chỉ Chiêu Tăng là cháu của vua Xiêm – TG) đến chốn này làm gì. Chi bằng hai nước chúng ta hoà hiếu với nhau. Sau khi xong việc, nước tôi sẽ y lệ hiến cống. Như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cứu chúa (chỉ Nguyễn Ánh – TG) nước tôi để mặc chúng tôi lo liệu, xin vương tử đừng có giúp đỡ” .  
Với những trận đánh nhử, bề ngoài lơ là của quân lính và nhất là kịch bản giảng hoà đồng thời giữ vững khí thế của quân ta, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị chu đáo tinh thần quyết chiến của quân ta.  
Về địa bàn phục kích, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng nắm được địa hình và nghiên cứu kế hoạch bố trí quân và quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho giữa Mỹ Tho và Trà Tân. Quân Xiêm đang đóng ở Trà Tân cách Mỹ Tho khoảng hai mươi cây số. Ý đồ của chúng là từ Trà Tân tiến chiếm Mỹ Tho, như thế phải đi qua đoạn sông Mỹ Tho. Giữa Mỹ Tho và Trà Tân có hai sông nhỏ đổ vào sông Mỹ Tho là Rạch Gầm và Rạch Xoài Mút cách nhau khoảng bảy cây số. Cửa đổ ra sông của hai rạch đều rộng lại nhiều cỏ lác và cây bần (một loại cây nhỏ mọc ở địa phương) rất thuận lợi cho việc giấu quân. Đối diện hai rạch là cù lao Thới Sơn và cù lao Hộ. Thế trận bày ra đã rõ: thuỷ quân ở hai rạch sẽ chặn đầu, khoá đuôi đại bác ta sẽ bắn vào những tên nào muốn đổ bộ lên hai cù lao.
Đêm ngày mồng 9 tháng chạp (tức là 19 tháng 1 năm 1785) địch dời Trà Tân tiến về Mỹ Tho theo sông Mỹ Tho. Quân Nguyễn Huệ đã sẵn sàng: thuỷ quân giấu ở hai rạch, bộ binh và pháo bố trí trên bờ  sông và cù lao. Một số chiến thuyền của ta vẫn bố trí ở Mỹ Tho để nghi binh.
Chiêu Tăng, Chiêu Sương đã huy động toàn bộ lực lượng thuỷ quân và một bộ phận bộ binh. Quân bản bộ của Nguyễn Ánh cũng tham gia cuộc tiến công. Nguyễn Ánh đi đầu với các tướng thân cận phòng khi bất trắc thì còn kịp tháo chạy. Y còn bố trí sẵn thuyền ở Long Hồ (Vĩnh Long) để đón Nguyễn Ánh khi cuộc tiến công bị thất bại.
Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, quân ta để đoàn hơn ba trăm chiếc thuyền của Xiêm lọt vào trận địa mai phục, đầu đến Rạch Xoài Mút đuôi đến Rạch Gầm lúc rạng sáng 19 tháng 1 năm 1785 thì hai mũi thuỷ quân đổ ra đánh, chia cắt đoàn thuyền. Trong khi đó đại bác trên bờ và cù lao Thới Sơn tập trung bắn vào các thuyền. Đội hình quân địch rối loạn. Toàn bộ thuyền chiến hơn ba trăm chiếc kể cả thuyền của quân Gia Long bị đắm hay phá huỷ. 
Trận đánh kết thúc rất nhanh và đạt kết quả to lớn. Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng một số quân lên được bờ Bắc chạy về phía Campuchia để về Xiêm. Số tàn quân chạy tán loạn độ vài nghìn.. Theo Vũ Thế Dinh, số quân còn lại là hơn một vạn 2.
Về phía quân Gia Long, viên cai cơ chỉ huy quân thuỷ chết tại trận. Chủ tướng của quân Gia Long là Lê Văn Quân vừa chạy vừa thu tàn quân, lúc sang tới tới xiêm còn sáu trăm quân. Nguyễn ánh cùng một số tướng tá chạy đến Trấn Giang (Cần Thơ) đi thuyền ra Hà Tiên rồi các đảo Thổ Chu, Cổ Cốt, từ đó sang Xiêm. Số quân bản bộ của Nguyễn ánh chạy thoát sang Xiêm là hơn tám trăm người (trước trận đánh là ba, bốn nghìn).
Như vậy quân Xiêm mất gần bốn vạn người, tức là bốn phần năm tổng số quân Xiêm lúc vào trận, số quân Gia Long bị diệt hơn ba nghìn người. Quân Tây Sơn đã quét sạch địch ra khỏi đất Gia Định, thu hồi những vùng đất đã bị chiếm. Trận Rạch Gầm – Xoài Mút là một trong những trận thuỷ chiến lớn nhất và lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Trong bản dịch gửi quan lại, quân dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Quang Trung có quyền nói:
“Nơi đâu ta đã đem quân đến là quân thù đều bị đánh cho thất bại và tan tác. Nơi đâu ta đã mở rộng chiến trận là quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải quy hàng” .
Sau trận này, Xiêm sợ Tây Sơn như cọp. Năm 1790 tại Bắc Kinh sứ ta gặp sứ Xiêm tại triều đình nhà Thanh, hai bên cùng dự yến tiệc với nhau trong gần hai tuần, đối xử với nhau bình thường. Ánh còn lưu lại Xiêm một thời gian để lo tổ chức lực lượng. Xiêm sợ can thiệp vào Việt Nam một lần nữa nhưng vẫn tiếp tục thực hiện ý đồ khống chế Vương quốc Chân Lạp và đó là một chính sách dẫn tới sự đụng độ mới với Việt Nam thời nhà Nguyễn.
2. Đối với phong kiếm Xiêm
Cũng như Đàng Trong, mối quan hệ của Xiêm với Đàng Trong họ cũng dựa vào lợi ích của mình, nhằm nâng cao việc buôn bán giữa hai nước. Nước Xiêm muốn giao thương với các nước Đông Bắc Á, cũng như Đàng Ngoài phải qua lãnh hải Đàng Trong, nên cũng có mối quan hệ nhất định với Đàng Trong. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ này để nâng cao vai trò trong khu vực cũng như tranh giành ảnh hưởng chính với Đàng Trong là Chân Lạp.
Suy cho cùng Xiêm vẫn ở thế yếu so với Đàng Trong, chiến tranh không những đến từ một mặt phía Đông Chân Lạp, và một đối thủ rất nguy hiểm đến từ phía Tây, Tây Bắc là Miến Điện .Đã có 109 năm chiến tranh với Miến Điện ( 1549- 1766), về phía Miến Điện có 9 cuộc tấn công xâm lược Xiêm. Nay lai đối đầu với Đàng Trong, một quốc gia hùng mạnh trong khu vực không hề thua kém Miến Điện, những thiệt hại về người và của do chiến tranh gây ra vô cùng to lớn, làm cho đất nước bị suy yếu đi một phần, chính trị trong nước không ổn định, cát cứ khắp nơi, quá  trình thống nhất đất nước gặp nhiều khó khăn và nhiều xương máu.
3. Đối với một số nước trong khu vực
Quan hệ giữa Đàng Trong- Xiêm đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các nước trong khu vực, đã biến Chân Lạp và Ai Lao trở thành chiến trường của Đàng Trong- Xiêm. Buộc các quốc gia này phải có chính sách hợp lý để không mất độc lập và chính sách này cũng phải dựa vào thời thế, hoàn cảnh cụ thể lúc mạnh yếu của Đàng Trong- Xiêm.
Năm 1603, Xiêm đã đưa Soryopor lên ngôi( 1603-1618). Soryopor tự xưng là chư hầu của Xiêm, áp đặt các nghi lễ của triều đình Xiêm. Sự phản ứng trong nước đã nổ ra. Năm 1618, Soryopor phải buộc thoái vị và nhường ngôi cho con là Chetta II(1618- 1628). Ông đã tuyên bố độc lập với Xiêm và khôi phục lại cách ăn mặc và nghi lễ Khome truyền thống. Ông đã dời đô về Oudong phía Nam Lovek. Để khôi phục lại ảnh hưởng của mình, Năm 1623 Xiêm lại mở hai cuộc tấn công Campuchia, nhưng đều bị hai anh em Chetta II đánh bại. Năm sau một cuộc tấn công bằng đường biển của quân Xiêm cũng thất bại.
Cuộc tấn công của Xiêm liên tiếp khiến Chetta II quay sanh nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ. Chetta II đã cưới một công chúa người Việt – Ngọc Vạn – năm 1620 và liên minh với Huế chống Xiêm. Chetta II cho cúa Nguyễn lập  các khu định cư ở Preykor (Sài Gòn sau này) để giữ an ninh. Năm 1658, hai người con của Outey là So và Angtan đã trốn thoát trong cuộc thảm sát, đã nổi dậy chống lại Chan, nhưng bị thất bại, họ tìm đến người vợ góa của Chetta II ở Huế, và đã làm trung gian nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ.
Năm 1673,  Angchei được vua Xiêm giúp chiếm lại Mộ Xoài. Chúa Nguyễn cho cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Đường Lâm vào đánh. Angchei thua chạy vào rừng và bị người trong phái giết chết. Chey Chetta IV (Nặc Thu) cho biên soạn và cải cách luật pháp, vì năm 1583 Xiêm đánh chiếm Lovek, thiêu hủy hết thư tịch.
Năm 1695, Chey Chetta IV thoái vị và đưa hoàng tử Outey lên ngôi, được 6 tháng thì Outey chết. Chetta lại lên làm vua. Ông thoái vị lần thứ hai vào năm 1699, trao ngôi cho hoàng tử Angem, nhưng sau đó năm 1701 bị phế truất, vì bị coi là thiếu năng lực. Chetta lên ngôi lần thứ 3. Năm 1702, ông lại thoái vị và đưa con mới 12 tuổi lên ngôi, ông làm phụ chính. Hai năm sau ông lại phế truất con và lên ngôi lần thứ 4 kéo dài đến năm 1706.
Việc vua thoái vị và lên ngôi liên tiếp đã gây ra tác hại rất lớn đến quyền lực của triều đình. Các hoàng tử bị phế truất trở thành các đối thủ tranh giành quyền lực, họ làm suy yếu đất nước, dẫn tới sự can thiệp nhiều hơn của nước ngoài. Năm 1722, quân Xiêm lại tiến hành các cuộc hành quân nhằm đưa Thommo Reachea trở lại ngôi vua. Với sức ép mạnh của quân Xiêm, Angem đã thay đổi thái độ, chấp nhận triều cống cho Xiêm. Xiêm đồng ý rút quân, đem theo cựu quốc vương và em trai là Angtong.
Trong thời kì này (1722- 1733) Campuchia rơi vào tình trạng hỗn loạn với một vua và 3 cựu quốc vương. Họ ra sức tranh thủ Xiêm và Việt Nam một cách thiếu suy xét. Năm 1738, Satha II mất ngôi vì cuộc đảo chính trong hoàng cung, họ gọi Xiêm giúp và đưa Thomm Reachea về nước (Nặc Thâm). Quân Xiêm tiến vào Korat, một đạo quân đi đường biển vào tỉnh Campot. Satha II chạy sang Việt Namcầu viện. Sau khi lên ngôi, Thommo lập tức mở chiến dịch trục xuất người Việt đến tận sông Mekong, nơi mà Huế đã bắt đầu mở rộng quyền lực của mình, Thommo chuyển hướng tấn công vào Mạc Cửu. Mạc Cửu đã qua đời năm 1735, con trai là Mạc Thiên Tứ được sự giúp đỡ của Huế đã đánh tan đội quân của Thommo.
Thommo chết năm 1747, con trai ông lên ngôi, nhưng ngay lập tức bị người em trai đầy tham vọng giết chết. Vua Xiêm là Taksin (Trương Quốc Anh) đòi người tiếm ngôi phải triều cống, nhưng bị Nặc Tha khước từ. Quân Xiêm từ Korat tiến đến đánh Siêm Reap và Battambang, xem đó là điều kiện để khôi phục nhà vua lưu vong, nhưng đến tháng 3 năm 1769 quân Xiêm đã bị đánh bại và rời khỏi Campuchia. Năm 1771, Xiêm lại đánh Hà Tiên và chiếm được, sau đó tiến lên Phnompenh, đánh bật Angtong (Nặc Tha) và thay thế bằng Angnon (Nặc Nộn). Đến năm 1772 với sự giúp đỡ của chúa Nguyễn, Angtong đã đánh bại quân Xiêm và chiếm lại thủ đô. Angtong cũng không giữ được lâu, bị quân Xiêm đánh bại và đưa người của mình lên (1773). Ngay sau đó Việt Nam đã tiềm cách giành lại quyền lực bằng cách đưa Nặc Ton lên làm vua. Năm 1774, Xiêm đưa Angeng (Nặc Vinh) lên ngôi ở Bangkok rồi đưa Angeng về Udong, nhân cơ hội này Xiêm đã kiểm soát các tỉnh Campuchia ở phía tây như Battambang, Sisophon và Korat. Xiêm đã lặng lẽ thôn tính các tỉnh này vào năm 1795. Có lẽ đây là cái giá mà Angeng phải trả cho Xiêm để phục hồi ngôi báu của mình.
Ai Lao đã không còn thống nhất mà đã phân thành tiểu quốc. Hai tiểu quốc mạnh nhất Vienchan và Luangprabang là đối thủ của nhau. Mỗi quốc gia đều bị suy yếu nghiêm trọng vì muốn tìm cách thôn tính lẫn nhau và nhờ sự giúp đỡ của các nước Miến Điện, Xiêm và Việt Nam.
Sài Ông Huế cho một đội quân đi đánh Xiêng Khoảng vì nước này không chịu nạp cống. Nhà vua bỏ chạy và người em lên thay thế. Nhưng khi quân Vienchan rút đi thì nhà vua cũ trở lại và chịu quy phục Vienchan.
Đối với các tỉnh phía nam Lào thì Sài Ông Huế ít thành công hơn. Chậu Soi, người cai trị ở đó từ năm 1713- 1747, đã có quan hệ tốt với Xiêm và Campuchia, nên Sài Ông Huế không dám đụng đến.
Năm 1735, Sài Ông Huế mất, con là Ông Long lên nối ngôi. Ông Long đã lớn tuổi và trị vì đất nước một cách hòa bình, ổn định trong 22 năm. Ông không tham gia vào các cuộc biến động ở Miến Điện, Xiêm, Luangprabang.
Năm 1755, quân Vienchan đánh Xiêng Khoảng vì không nạp cống. Xiêng Khoảng được Việt Namủng hộ và bắt hai bên phải đình chiến. ông Long rút quân về và mời vua Chompon và Xiêng Khoảng đến Vienchan hội đàm. Chompon sợ bị nưu nên 3 năm sau mới đến và Chompon bị bắt giam thật. Năm 1760, Việt Nam lại can thiệp buộc Ông Long phải thả Chompon ra, Ông Long đã y bệnh. Ông Long qua đời, con là Ông Boun, ủng hộ chính sách của Miến Điện, lúc đầu mọi việc đều tốt đẹp.
Năm 1774, vua Xiêm là Taksin muốn khôi phục lại quyền lực ở Lào, đã đem quân đánh Luangprabang do Miến Điện cai trị. Đáng ra Vienchan từ bỏ liên minh với Miến Điện, ủng hộ Luangprabang, thì lại liên minh với Miến Điện chống lại Xiêm, nên bị Xiêm đánh. Au vài tháng Vienchan bị bao vây, Vua Ông Boun phải trốn đi lưu vong. Vienchan rơi vào tay Xiêm.
Năm 1782, Ông Boun chính thức quy hàng Xiêm, sau đó ông được phép trở lại Vienchan và con trai ông là Chậu Nan được trao quyền cai trị vương quốc với tư cách là chư hầu của Xiêm.
Mối quan hệ Xiêm- Việt là yếu tố chính làm cho Chân Lạp suy yếu gần như mất độc lập. Trong hoàng tộc tranh giành ngôi vua giết hại lẫn nhau, nguyên nhân chính cũng xuất phát từ quyền lợi của Việt- Xiêm. Ai Lao đất nước không thông, ghét sự tranh giành giữa các tiểu quốc, đã đưa đến sự can thiệp của Miến- Việt- Thái, làm cho đất nước bị suy yếu nghiêm trọng. Tất cả cũng xuất phát từ quyền lợi giữa hai nước Việt- Xiêm.
Nhận xét mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm trong các thế kỉ XVII- XVIII
Về quan hệ Đàng Trong- Xiêm là mối quan hệ không giới hạn giữa hai quốc gia , liên quan đến bối cảnh quốc tế trong khu vực Đông Nam Á, lục địa, địa bàn tranh chấp chủ yếu là hai nước Ai Lao, Chân Lạp trên bán đảo Đông Dương, mối quan hệ này là một trong những nguyên nhân dẩn đến sự suy yếu của Chân Lạp, Ai Lao và phải lệ thuộc vào Đàng Trong- Xiêm.
Các chúa Nguyễn đã khống chế được Xiêm trong việc tranh giành ảnh hưởng ở Chân Lạp, các vị vua và hoàng thân Chân Lạp do chúa Nguyễn phong hoặc theo chúa Nguyễn, đã được bên vực một  cách đắc lực. Và hễ Xiêm có đem quân vào Chân Lạp thì chúa Nguyễn cũng không ngần ngại đem quân đến đây để tranh hùng. Mặc dù có sự tranh chấp về vấn đề Chân Lạp, các chúa Nguyễn và vua Xiêm, triều A Du Đà cũng như Trịnh Quốc Anh vẫn giữ hòa hảo, thường cử xứ giả qua lại, thư từ hoặc tang vật. Tài liệu  còn ghi chép lại mấy bức thư trao đổi giữa triều đình Nguyễn và Xiêm. Qua đó, ta thấy các quan chúa Nguyễn vẫn giữ giọng đàn anh. Nhìn chung, vì lợi ích quốc gia của mình, hai nước cũng khẳng định vị thế và vai trò của mình trong khu vực, không một nước nào chịu thua nước nào. 
KẾT LUẬN
Hiện nay, bán đảo Trung Ấn với 6 quốc gia. Việt Nam, Lào, Campuchia thuộc khu vực Đông Dương và Thái Lan, Mianma, Malayxia nằm phía tây bán đảo Trung Ấn. Trước thế kỉ XVIII, ở đây có đến hàng chục quốc gia với nhiều sắc tộc khác nhau. Với vị trí địa lý hoàn toàn cách xa nhau hàng ngàn dặm, không ai ngờ rằng,   xung đot dẫn đến chiến tranh trực tiếp giữa hai nước Đại Việt và Xiêm mà trước đó buôn bán vẫn la mối quan hệ chính . Từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào tiếp quản Thuận Hóa, chúa Nguyễn đã dần dần mở rộng lãnh thổ về phía Nam( còn gọi là công cuộc Nam tiến), thôn tính Chiêm Thành, sát nhập Thủy Chân Lạp vào lãnh thổ để thư hùng chúa Trịnh Đàng Ngoài hình thành cục diện Đàng Trong- Đàng Ngoài. Bên kia bán đảo Trung Ấn một thế lực cũng đang hình thành từ hạ lưu sông Mê Nam, ban đầu là tiểu quốc Lavo, họ tiến lên thượng nguồn chiếm Sukhothay, Lanna,..và các tiểu quốc bán đảo Malaya với tên mới là Ayuthaya, sau là này là Xiêm. Với hai thế lực đang lên Đàng Trong và Xiêm (người Thái) và một cuộc đụng độ lịch sử bắt đầu xuất hiện.
Cuộc đụng độ này đã khiến các quốc gia nhỏ yếu vào vòng xoay thư hùng Đàng Trong – Xiêm, nó làm cho chính trị, kinh tế trong khu vực thêm phần suy yếu dẫn đến mất độc lập hay gần như lệ thuộc các quốc gia Ai Lao, Chân Lạp. Bản thân cuộc thư hùng của Đàng Trong- Xiêm dẩn đến quốc gia suy yếu phần nào, khởi nghĩa trong nước diễn ra dữ dội ở Đàng Trong, tạo thời cơ không nhỏ cho Miến Điện xâm lược Xiêm. Nhìn chung thế kỉ XVII-XVIII, là một thế kỉ đầy biến động, các nước có quan hệ chòng chéo lẫn nhau trong khu vực Đông Nam Á lục địa. Đồng thời, thể hiện rõ chế độ phong kiến đang trên đà suy yếu, điển hình là Ai Lao, Chân Lạp,..dẫn đến sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây vào khu vực giàu có với vị trí chiến lược bật nhất trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Huỳnh Lửa (chủ biên), Lê Quang Minh, Văn Năm, Nguyễn Nghi, Đồ Hữu Nghiêm (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB TP. Hồ Chí Minh.
[2]. Lam Giang Nguyễn Quang Trứ, Vua Quang Trung, NXB thanh niên.
[3]. Lương Ninh (Chủ biên), Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh, Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục.
[4]. Lưu Văn Lộc (2000), Ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
[5]. Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6]. Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, NXB tổn hợp TP. Hồ Chí Minh.
[7]. Nguyễn Văn Nam (biên soạn), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á – Asean, NXB Hà Nội.
[8]. Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí.
[9]. Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kì, Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia (1982), NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp Hà Nội.
[10]. Trịnh Hoài Đức (bản chép tay của viện Khảo cổ Sài Gòn), Gia Định Thành thông chí.
[11]. Võ Kim Cương, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Tạp chí nghiên cứu lịch sử.
[12]. Vũ Minh Quang (Chủ biên) (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ – Việt Nam, NXB Thế Giới.
Trích một phần luận văn : QUAN HỆ ĐÀNG TRONG-XIÊM THẾ KỈ XVII-XIII
Đỗ Xuân Giang (Sưu tầm)

Nhận xét