Sự tiến chuyển trong quá trình bình thường hóa và việc tuyên bố bình thương hóa giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc


Ảnh sưu tầm

Ngày 15/12/1988, Việt Nam đã chính thức đề nghị Trung Quốc tổ chức cuộc gặp cấp Bộ trưởng Bộ ngoại giao để bàn về bình thường hóa quan hệ hai nước. Đáp lại đề nghị của Việt Nam, ngày 24/12/1988, Bộ ngoại giao Trung Quốc đã ra thông báo mời một Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam đi Bắc Kinh vào giữa tháng 01/1989 để trao đổi với Trung Quốc về “vấn đề Campuchia” và bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, chuẩn bị cho cuộc gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hai nước. Mặc dù trung Quốc đã chấp nhận lời đề nghị nối lại đàm phán của Việt Nam, nhưng khi tiến hành đàm phán, điều kiện mới mà Trung Quốc đưa ra cho Việt Nam để đỏi lấy việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước không chỉ là rút quân khỏi Campuchia mà còn phải ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề này.
Trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt - Trung đầu tiên đã diễn ra tại bắc Kinh từ ngày 16 đến 19/01/1989, hai bên thỏa thuận tương đối nhanh mấy vấn đè về mặt quốc tế của giải pháp Campuchia (rút quân Việt Nam vào tháng 9/1989, giám sát quốc tế, chấm dứt viện trợ quân sự, tổng tuyển cử), đồng thời thúc đẩy các bên Campuchia thương lượng để sớm đạt giải pháp. Trung Quốc muốn Việt Nam thỏa thuận về hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, chủ yếu là vấn đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ (thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử), đồng thời khẳng định rằng nếu có thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn về quan hệ hai nước. Lập trường của Việt Nam là vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia giải quyết. Quá trình đàm phán vừa mở ra lại trơi vào tình trạng bế tắc. Cuối cùng, hai bên đã đi đến thống nhất tiếp tục đàm phán cấp Thứ trưởng vòng hai và Trung Quốc cũng cho Việt Nam biết rằng: “nếu cuộc gặp vòng hai có kết quả và “vấn đề Campuchia” có tiến triển thì Trung Quốc mới khẳng định việc tổ chức cuộc gặp bộ trưởng Bộ Ngoại giao của hai nước” để đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.[1].
Mặc dù quan hệ Việt - Trung chưa chính thức được bình thường hóa trở lại, nhưng những hoạt động giao lưu buôn bán giữa nhân dân vùng biên giới hai nước đã diễn ra mạnh mẽ: Sau khi Việt Nam ra văn bản số 118 (01/1989) chính thức cho nhân dân hai bên biên giới được xuất nhập cảnh và việc Trung Quốc lần lượt mở cửa một số điểm buôn bán công khai ở biên giới từ năm 1988, đã hình thành nên “khoảng 300 điểm buôn bán trên đường biên giới dài hơn 1300km ở Quảng Tây và Văn Nam” Về những hoạt động buôn bán trên vùng biên giới Việt – Trung. Ngày 12/8/1990, trong lúc đang ở thăm Singapore, Thủ tướng Trung Quốc L‎ý Bằng đã đưa ra lời tuyên bố: “Trung Quốc hy vọng cuối cùng sẽ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam”. Đáp lại tuyên bố trên của ông Lí Bằng, ngày 13/8/1990. Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười đã ra tuyên bố hoan nghênh và khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và giải quyết những vấn đề giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình”[2].
Trước hết là chuyến thăm trung Quốc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tư cách là khách đặc biệt của Chính phủ trung Quốc nhân lễ khai mạc Á vận hội lần thứ 14 (ASIAD 90 diễn ra từ 18 đến 28/9/1990 tại Trung Quốc). Đồng thời trước đó, đoàn thể thao Việt Nam trên đường đến Bắc Kinh tham dự của Việt Nam ASIAD 90 cũng được phía Trung Quốc tổ chức đón tiếp thân mật tại cửa khẩu Hữu Nghị. Báo cáo tại kì họp thứ tư, Quốc hội Trung Quốc khóa VII ngày 25/3/1991, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã tuyên bố: “Chúng ta hy vọng phía Việt Nam và Phnompenh xuất phát từ cục diện lớn hòa bình ổn định trong khu vực này và lợi ích căn bản của nhân dân Campuchia, thuận theo trào lưu lịch sử, có thái độ hiện thực làm cho “vấn đề Campuchia” sớm được giải quyết. Trung Quốc mong muốn cùng với cộng đồng quốc tế, trong khuôn khổ các văn kiện có liên quan của Liên hợp quốc, thông qua cố gắng sớm giải quyết toàn diện, công bằng hợp lí “vấn đề Campuchia”. Cùng với sự tiến triển của việc giải quyết chính trị “vấn đề Campuchia”, quan hệ Việt - Trung đã bắt đầu tan băng cũng sẽ được phụ hồi từng bước”. Về phía Việt Nam, chủ trương thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm. Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khóa VI về các văn kiện trình Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc sáng ngày 24/6/1991 xác định: “Phấn đấu góp phần sớm đạt một giải pháp chính trị toàn bộ về “vấn đề Campuchia”, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và ”khóa VII ngày Hiến chương Liên hợp quốc. Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung, giải quyết nững vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”.[3]
Thực hiện chủ trương trên của lãnh đạo hai nước, những hoạt động ngoại giao cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng và các cấp cao hơn giữa hai bên đã liên tiếp diễn ra để chuẩn bị cho việc bình thường hóa quan hệ Việt - Trung khi “vấn đề Campuchia”, được giải quyết. Ngày 18/7/1991, sau khi cuộc họp của Hội đồng dân tộc Tối cao Campuchia (SNC) tại Bắc Kinh đã đạt được thỏa thuận cử ông Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã dẫn dầu đoàn Việt Nam sang Trung Quốc thỏa luận về “vấn đề Campuchia”, và những vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm nhằm tiến đến chấm dứt tình trạng không bình thường giữa hai nước. Từ ngày 28/7 đến 02/8/1991, Đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Thường trực Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh và Trưởng ban đối ngoại trưng ương Hồng Hà dẫn đầu sang thăm và làm việc với Trung Quốc đàm phán về việc bình thường hóa quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Việt - Trung. Chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại diện của Đoàn đại diện đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ và tiếp đón trọng thị từ phía lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Trong buổi làm việc, Tổng bí thư Giang Trạch Dân nêu: “Chúng ta là hai nước láng giềng, hai Đảng Cộng Sản cầm quyền, không có lí do gì không xây dựng quan hệ láng giềng, hữu hảo với nhau” và ông đại diện Đảng và Nhà nước Trung Quốc mời đoàn cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc trong năm 1991.
Sau khi hiệp định Pari 23/10/1991 về Campuchia được kí kết, Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã dần đàu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm chính nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo lời mời của Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Giang Trạch Dân. Kết thúc chuyến thăm, Việt Nam và Trung Quốc đã kí kết thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Thông cáo nêu rõ: “Hai bên tuyên bố hai nước Việt Nam – Trung Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình. Hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc sẽ khôi phục quan hệ bình thường trên các nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”[4]. Như vậy, ý nghĩa thông cáo chung là rất lớn, nó đã đưa lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc sang một trang mới, hòa bình, ổn định và phát triển.
Sau lời tuyên bố đó, hai bên đã kí kết Hiệp định thương mại và Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc vùng biên giới giữa hai nước, tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trên lĩnh vực thương mại và giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ. Chuyến thăm này đã đánh dấu sự bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam – Trung Quốc, mở ra một triển vọng tốt đẹp cho quan hệ hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, mở ra một ttrang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau 13 năm băng giá.
Như vậy, quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra trong điều kiện lịch sử thuận lợi và khó khăn đối với hai quốc gia. Những ảnh hưởng từ bên ngoài, độc lập tự do từ bên trong luôn xuất hiện giữa qan hệ các nước. Từ năm 1989 – 1991, quá trình bình thường hóa giữa hai nước diễn ra mạnh mẽ và đạt được kết quả tốt đẹp, đó là quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa. Mở ra một trang mới trong lịch sử ngoại giao giữa hai quốc gia, giữa hai nhân dân. Từ đây, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Mặc dù, hiện nay xuất hiện vấn đề tranh chấp biển Đông nhưng hai nước vẫn cố giữ gìn tình hữu nghĩ, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình/ Năm 1991 đi vào lịch sử ngoại giao hai nước như một mốc son lịch sử mang ý nghĩa lớn lao. Trong dịp kỉ niệm 68 năm Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao được tổ chức tại Hà Nội hôm 20/01/2018, Thứ trưởng Lê Hoài Trung khẳng định trong tổng thể chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam hết sức coi trọng mối quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Đây là chủ trương nhất quán, lâu dài và là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tin tưởng rằng với nỗ lực chung của hai bên, quan hệ hai nước sẽ không ngừng được củng cố và có những bước phát triển mới, góp phần thiết thực vào hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới. Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hồng Tiểu Dũng khẳng định Trung Quốc coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị với Việt Nam, sẵn sàng cùng Việt Nam triển khai thực hiện tốt nhận thức chung cấp cao, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu.
 Tác giả: Trần Hoàng


[1]TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016). Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc (1986 - 2006). NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.11.
[2] TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016), sđd, tr.18.
[3] TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016), sđd, tr.19.
[4] TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016), sđd, tr.21

Nhận xét